hài lòng. Ông quỳ xuống, tóc xõa xuống mặt và áp vầng trán đã trụi tóc
xuống nền sàn ẩm ướt, lạnh lẽo. (Gió thổi trên sàn).
... Ông đọc thánh thi, cha Pimen già đã bảo ông rằng thánh thi giúp
cho người ta thoát khỏi cảnh quỷ ám. Ông nhẹ nhàng vươn tấm thân gầy
guộc nhẹ bẫng của mình trên đôi chân cứng cáp giật giật và định đọc tiếp,
nhưng ông không đọc mà bất giác giỏng tai lắng nghe. Ông muốn nghe. Im
lặng hoàn toàn, vẫn những giọt nước ấy tí tách rơi từ trên mái nhà xuống
chiếc thùng gỗ nhỏ đặt ở một góc. Ngoài sân, sương mù và tuyết che lấp
hết mọi vật. Lặng lẽ, lặng lẽ quá. Và bỗng nhiên có tiếng sột soạt ở cạnh
cửa sổ và rõ ràng là có tiếng người nói - vẫn là giọng nói dịu dàng, rụt rè,
chỉ ở người đàn bà hấp dẫn mới có được giọng nói như thế:
- Xin hãy mở cửa ra. Vì Chúa Kito...
Tưởng như tất cả máu huyết dồn vào tim và dừng lại đó. Ông không
thở được nữa. "Chúa sẽ phục sinh và lập tức ban phát...".
- Con không phải là quỷ đâu... - nghe rõ thấy cái miệng đang nói ấy
mỉm cười. - Con không phải là ma quỷ, mà chỉ là một người đàn bà tội lỗi,
bị lạc đường, không phải theo nghĩa bóng mà theo nghĩa đen (bà ta cười
vang), con đã bị lạnh cóng rồi và xin được trú nhờ...
Ông áp mặt vào cửa kính. Ngọn đèn nhỏ rọi sáng và ánh lên khắp mặt
kính. Ông áp lòng bàn tay vào hai bên mặt và nhìn ra. Sương mù, thân cây,
và kia rồi, ở mé bên phải. Bà ta. Đúng rồi, bà ta, người đàn bà mặc áo
choàng lông có lớp lông trắng dài, đội mũ lông, khuôn mặt đôn hậu, sợ hãi,
rất dễ thương, bà ta đứng đó cách khuôn mặt ông chừng hai versoc, (1)
nghiêng về phía ông. Mắt họ gặp nhau và họ đã nhận ra nhau. Không phải
là có lúc họ đã nhìn thấy nhau, họ chưa bao giờ gặp nhau cả, nhưng trong
cái nhìn mà họ trao đổi cho nhau đó, họ (đặc biệt là ông) cảm thấy rằng họ
biết rõ nhau, hiểu nhau. Sau cái nhìn đó, không thể nào còn nghi ngờ rằng