ra nâng đỡ cho một số bộ tộc miền núi người Mẹo, chuyên sống bằng nghề
buôn lậu ma tuý, để đám thổ phỉ ấy gia tăng những hoạt động quấy nhiễu
hậu phương của bọn cộng sản. Mặc dù chiến sự đang xảy ra rất ác liệt tại
vùng đó, nhưng các tốp buôn thuốc phiện, xưa nay từng kình địch nhau,
vẫn sát phạt nhau không chút nể nang. Người của ta đã cấp cho một trong
những tốp phỉ đó một vài máy bay vận tải, giúp bọn họ chở thuốc phiện
nguyên khai đến các nơi tiêu thụ, theo những đường bay thương mại hợp
pháp. Nhưng theo tớ thì nhiều vị tai to mặt lớn ở ta rỏ ra rất bất bình: lẽ nào
chính phủ Hoa Kỳ lại đi nhúng tay vào việc khuếch trương thứ mặt hàng
bẩn thỉu nọ?
Cậu còn lạ gì, buôn thuốc phiện là một nghề rất chóng giàu. Nhóm chúng
tớ, nhiều đứa cậu đã gặp rồi đấy, liền quyết định: đừng nên bỏ lỡ dịp may;
phải chớp ngay lấy thời cơ, để kiếm thêm tí đỉnh, cho bỏ cảnh băng rừng lội
suối mà! Thế là bọn tớ chia tay nhau đi mua gom thuốc phiện nguyên khai
loại thượng hạng trên thị trường chính thức, rồi tung đi các nơi kể cả Tây
Âu và nước ta, bằng những con đường khác. Công sức chúng tớ bỏ ra quả
đã được đền bù xứng đáng.
Hồi mới đầu, tớ không tán thành lắm cách làm ăn của Attwood. Thay vì
bán ngay nguyên liệu ở Thái Lan cho các cơ sở chế biến tại đấy, mà kiếm
chút ít lời lãi phải chăng thôi, thì lão cứ nằng nặc đòi phải chở thuốc phiện
bánh sơ chế kia về thẳng Mỹ, bán chúng cho những giới kinh doanh bên ta,
vốn không muốn qua nhiều tay trung gian. Những khoản tiền lãi bạc triệu
đã giúp lão thắng cuộc. Thế là chúng tớ buộc phải dùng đến ngày một
thường xuyên hơn các đường dây liên lạc bí mật của CIA.
Tiểu ban của cậu, sở dĩ được bọn chúng tớ ưng ý là vì hai lẽ. Một là, chúng
tớ đã doạ nạt được gã thủ quỹ, - cái gã trước kia cơ, chứ không phải
Heidegger đâu, - buộc hắn phải quy hàng. Hai là, chúng tớ cũng đã mua
chuộc được một gã kế toán khác; hắn bằng lòng làm trò quỷ thuật với hoá
đơn mua sách và nhập sách. Nhờ thế, toàn bộ các vụ mua bán ma tuý của tớ