thẹn. Tóc trên đầu Tamatha thưa đến nỗi Malcolm cảm tưởng như anh có
thể đếm được từng sợi một.
- Ron này, anh có biết tại sao hôm nay Rich không đến không? Anh ta ốm
chăng? - Tamatha khẽ hỏi.
- Không, tôi chẳng biết. - Malcolm la lớn, rồi xì mũi ầm ĩ.
- Tôi chỉ hỏi thế thôi, chẳng có gì đâu. Sao anh lại hét ầm lên thế? Tôi chỉ
lo cho anh ấy thôi mà. Vì chẳng thấy anh ta đi làm, mà cũng không thấy gọi
điện tới.
- Có quỷ may mới biết được tại sao. - Malcolm lại cố ý hét rõ to, vì anh biết
tính cô gái: hễ thấy ai quát tháo là lập tức hoảng hốt.
- Trời ơi, sao hôm nay anh khoẻ gắt thế? - Tamatha rụt rè hỏi.
- Tôi bị cảm xoàng…
- Tôi mang aspirine đến cho anh nhé?
- Tôi chả làm sao đâu, thuốc thang khỉ gì! - anh đáp chẳng mấy niềm nở -
ăn thua quái gì ba cái thứ thuốc cảm vứt đi ấy.
- Hôm nay anh dễ cáu lạ! Chào anh nhé! - Tamatha bước ra, rồi cẩn thận
khép cửa lại.
“Lạy chúa!”, - Malcolm nghĩ bụng và lại cắm cúi đọc quyển truyện mới in
của nữ văn sĩ Anh Agatha Christie.
Lúc 11 giờ 15, một hồi chuông điện thoại réo vang. Malcolm nhấc ống
nghe lên và nhận ngay ra giọng nói tẻ nhạt của tiến sĩ Lappe:
- Malcolm này, tôi có việc cần nhờ đến anh. Ngoài ra, trưa nay đến lượt anh
phải đi lấy bánh cho anh em đấy. Tôi nghĩ trời này chắc ai cũng thích ở lại
trưa ngay tại sở.
Malcolm ngước nhìn ra ngoài trời. Mưa vẫn đập rào rào không ngớt vào
kính cửa sổ. Anh cũng đi đến ý nghĩ như ngài tiến sĩ hội trưởng:
- Vì thế, anh có thể dùng một mũi tên, hạ luôn hai con thỏ: vừa giải quyết
được công việc tôi sắp giao, vừa nhận bánh trưa cho anh em ở nhà, - tiến sĩ
Lappe tiếp, - Walter sẽ gặp từng người, hỏi họ muốn ăn gì. Vì anh phải
chuyển cái bưu kiện này đến toà nhà cũ của Thượng Viện, nên tôi khuyên
anh nên ghé luôn vào nhà hàng Hap mà đặt các món. Anh có thể đi ngay từ
bây giờ đấy.