Năm phút sau, Malcolm vừa hắt hơi liên tục, vừa ung dung băng ngang qua
tầng trệt. lách người qua cổng hậu bé tí, ngày trước vẫn dùng để chở than
và củi đun cho người chủ cũ, lên đường thừa hành “công vụ”. Nhân viên ở
đây hẳn không ai biết đến cánh cổng hậu ấy (vì nó mới được trở về sau, khi
toà nhà đã xây xong xuôi đâu vào đó) nếu như lão Walter, một hôm, không
dịch cái tủ to tướng, đầy những ngăn kéo, nằm án ngữ ở đằng trước ra, để
đuổi chú chuột cống lì lợm, vẫn ngang nhiên công phá sách vở của Hội.
Người ngoài nhìn vào sẽ không trông thấy cánh cổng kia, bởi nó nằm khuất
sau mấy khóm tử đinh hương. Tuy nhiên, nếu muốn đột nhập vào toà nhà,
thì họ chỉ cần khôn khéo nép sát người vào vách tường, là có thể lách qua
được. Nói thế chứ đố ai làm nổi chuyện đó, bởi một lẽ rất giản đơn: chốt
cửa lại cài ở phía trong.
Vừa chạy vội đến toà nhà cũ Thượng Viện, Malcolm vừa không ngớt rủa
thầm. Chốc chốc, anh lại phải dừng lại xì mũi, trong khi mưa vẫn tuôn xối
xả. Anh đến nơi thì mưa đã biến chiếc vét-tông màu nâu nhạt trên người
thành màu gan gà. Cô nữ thư ký tóc vàng, ngồi trong phòng khách của một
vị thượng nghị sĩ, rất ái ngại cho chàng trai, nên rót mời khách một tách cà
phê, và ngồi ngắm anh chàng nhấm nháp. Cô ta cho Malcolm biết là anh
phải “chính thức” ngồi đợi tờ biên nhận về gói bưu kiện vừa mang đến. Cô
gái “hoàn toàn tình cờ hoàn tất việc kiểm lại sổ sách” đúng vào lúc
Malcolm nhấp hết tách cà phê. Cô ngước nhìn Malcolm, mỉm cười rất tươi
trước để từ giã, đến nỗi anh phải nghĩ bụng: việc mang đến cho ngài thượng
nghị sĩ nọ những quyển truyện trinh thám, tả những vụ án mạng đầy bí
hiểm, suy cho cùng, cũng chẳng đến nỗi hoài công.
Thường thường toà nhà cũ của Thượng Viện đến cái quán Hap kia, người ta
phải đi bộ chừng năm phút. Nhưng hôm đó, vì trời mưa to, nên Malcolm
chỉ cần vẻn vẹn đúng ba phút đồng hồ. Hap là một nhà hàng rất nổi tiếng
trong đám viên chức làm việc trên Đồi Capitol. Ở đây, việc phục dịch rất
mau lẹ, thức ăn lại ngon. Ngoài ra, nhà hàng còn có một món ăn “đặc sản”,