Khuya hôm ấy, sau khi đưa ông bà Ditschmann và cậu sinh viên Arkansas
được cấp học bổng về viện nghiên cứu, ông Cole và tôi đang trên đường trở
lại khách sạn thì ông phá lên cười, “Tôi hy vọng mình vẫn còn sống khi anh
chàng có bộ tóc kỳ quái kia tiếp quản Dàn nhạc Giao hưởng Boston. Ông có
tưởng tượng được bộ mặt của đám khán giả ngày thứ Sáu không?” Rồi ông
úp mặt vào tay và nói nhỏ, “Và ông có tưởng tượng được chuyện mình bay
sang châu Âu giúp đỡ con gái để rồi thậm chí ngay cả việc nó ở đâu mình
cũng không sao xác định được không?”
* * *
Chiếc pop-top màu vàng tiến vào thành phố Avignon thì Gretchen chỉ còn
một người đi nhờ xe. Anh thanh niên Đan Mạch đã bỏ cuộc khi họ rời thung
lũng sông Loire; Elsa và Fleurette ở lại cho tới khi đến Bergerac rồi phải lộn
về viện. Chỉ còn Anton, một người Tiệp Khắc tha hương cao lớn, u sầu với
vấn đề cấp bách là có nên quay về Praha góp sức vào cuộc chiến đấu chống
quân chiếm đóng Nga hay không. Anh rất biết ơn Gretchen vì đã thông cảm
giúp đỡ anh phân tích mọi khả năng, và anh nhất trí với cô điều anh nên làm
bây giờ là ở lại Tây Âu thêm hai năm nữa, hoàn thành việc học hành, rồi
trông vào may rủi của mình ở Praha.
“Nhưng nếu lúc đó lệnh ân xá lại bị thu hồi thì sao? Giả sử tôi không thể
về được?”
“Khả năng thứ hai là sang Canada,” cô đáp. “Tôi cho là tương lai ở đó khá
tốt đẹp.”
Anh hỏi liệu cô có lái xe lên cầu Avignon không; hồi còn nhỏ anh và các
chị em gái đã hát về cây cầu ấy, vậy là hai người đi dọc sông Rhone cho đến
khi tới cây cầu mái vòm đã để lại kỷ niệm đẹp trong lòng rất nhiều trẻ em,
và anh ngân nga bài hát ru cổ ấy, nước mắt ứa ra, rồi anh tâm sự với
Gretchen rằng các chị em gái của anh đều rất dễ thương và nỗi nhớ nhung
họ sẽ là gánh nặng khó khăn nhất trong cảnh lưu vong. Anh hỏi xem mình