“Chúng ta chỉ khăng khăng mỗi chuyện được việc, phải không, các nữ
hướng đạo sinh?”
Lý do khiến tôi vội vàng đã trở nên rõ ràng khi chúng tôi đến được trường
đấu bò, vì ngay cả vào lúc sớm sủa như vậy mà hơn ba nghìn người chen
chúc bên ngoài, chờ cổng mở lúc sáu giờ, và nếu không may, chúng tôi sẽ lỡ
mất màn làm quen lý thú với Pamplona. Nhờ may mắn, chúng tôi đã thúc
khuỷu tay len được vào một vị trí thuận lợi, cho nên khi cánh cổng rốt cuộc
cũng mở ra, tôi có thể chạy vụt lên những bậc cầu thang bê tông như một
chú thỏ hoảng sợ và lao tới một chỗ không phải bên trong trường đấu mà là
trên bậc cao trông xuống đường phố bên ngoài.
“Có người rồi, có người rồi!” tôi hét với mấy người lạ định xông vào
chiếm chỗ, vì thế đã giữ được bảy chỗ cho đến khi các bạn trẻ thở hổn hển
chạy lên xếp thành hàng bên cạnh tôi. Britta và Gretchen đứng sát cánh
khuỷu tôi, và tôi cho hai cô gái biết là giờ mọi người sẽ đứng đợi một tiếng
đồng hồ giữa tiết trời giá lạnh.
“Có đáng không nhỉ?” Monica hỏi, tôi bèn chỉ vào đám đông khổng lồ đã
tụ tập phía sau chúng tôi, khao khát được nhìn lướt qua cho dù chỉ một phần
những gì chúng tôi thấy tuyệt rõ.
“Chúng ta vất vả như thế này chỉ vì hai mươi giây phấn khích thôi,” tôi
giải thích.
“Vậy hai mươi giây ấy nên thật tuyệt thì hơn,” Monica trả đũa, nên tôi
cam đoan là cô sẽ được thỏa mãn.
Khoảng bảy giờ, đã có hai mươi nghìn người trong trường đấu, mười lăm
nghìn người ở quảng trường bên ngoài, một số trèo cả lên đầu bức tượng
Hemingway. Đột nhiên, từ phía bên kia thành phố, một quả pháo thăng thiên
nổ ùng một tiếng ai nấy ở khắp Pamplona đều nghe thấy. Những người trong
trường đấu từng xem cuộc chạy rồi đều hồi hộp chờ đợi, và một lúc sau nhẹ
cả người nghe thấy tiếng nổ thứ hai, có nghĩa cả sáu con bò đực đã rời khỏi
bãi quây thành một nhóm sát bên nhau. “Nếu quả pháo thứ hai bị đình lại,”
tôi giải thích, “mọi người sẽ hiểu là một con đã tụt lại sau, là có rắc rối to
rồi.”