đảm do adrenalin gây nên. Lúc trưa Bar Vasca chỉ có bốn khách, tính cả
Britta và tôi.
“Thành phố này hiu quạnh đến không sao chịu nổi,” cô phàn nàn sau khi
từ bệnh viện về và bị người gác mới không cho vào.
“Cô đã nhớ các bạn rồi à?”
“Cháu muốn nghe... chỉ một lần nữa thôi... tiếng anh Clive và các đĩa hát
của anh ấy. Như ban nhạc Octopus chơi một điệu hay chẳng hạn.”
“Cô sẽ làm gì?”
“Cháu không biết. Nhưng cháu sẽ không rời ông Holt.”
“Nếu định lấy anh ấy, cô có nên gọi anh ấy là Harvey không?”
“Ông ấy sợ cưới vợ.”
“Cô nghĩ mình có thể thay đổi được điều đó?”
“Việc ấy không quan trọng. Cháu sẽ đi Ceylon với ông ấy. Cháu phải đi.”
Chúng tôi chuyện trò như vậy suốt bữa trưa, và bà Raquel đến hốc tường
của chúng tôi để thông báo món hầm được nấu từ thịt con bò đã húc Holt.
Tôi hỏi làm sao bà biết, nhưng bà chỉ cười. Britta hỏi, “Bà đã xem ảnh
chưa?” Bà Raquel liền chỉ cái bảng cạnh quầy rượu, ở đó có bốn tấm đã
được đóng khung.
“Mọi người đều bất ngờ về hành động dũng cảm của Holt,” bà Raquel
nói. “Họ nghĩ anh ấy đã làm gì trong những năm qua chứ?” Bà thở dài và
quay lại quầy rượu.
Ba giờ chiều tôi lại đến bệnh viện và nhận thấy Holt đang vô cùng bối rối
vì cuộc viếng thăm của Britta đêm trước. “Cô gái Na Uy ấy rõ là điên.”
“Nhưng anh lại thích như vậy.”
“Tôi đang nhẩm tính đây. Tôi có thể kể tên bốn mươi cô gái đã lấy chồng
già. Nhưng trong đám đàn ông đó chẳng có ông nào nghèo khổ cả.”
“Cô ấy thì lại tưởng anh nghèo. Anh nghe cô ấy đề nghị đi làm rồi đấy.”
“Diễn thế thôi. Diễn thế thôi. Tôi biết làm gì khi giao du với đám bụi đời
ấy chứ?”