trường ở thành Baghdad cổ kính, hoặc ở Damascus hiện đại, hoặc ở Cairo cả
trăm năm trước, chỉ khác một điều là năm nay nó đông nghịt những kẻ trôi
dạt từ khắp mọi nơi trên thế giới, đa số là sinh viên manh nha ý định đến
thăm Marrakech nhưng sẽ không bao giờ đi xa hơn Tangier. Họ không mấy
ưa nhìn vì phần lớn đều mắt u tối, đầu tóc bù xù, dáng đi mệt mỏi, như thể
họ là những ông bà già hơn sáu mươi tuổi chẳng còn gì để trông đợi ở cuộc
đời chứ không phải lớp người tràn trề hy vọng đang độ tuổi mới lớn.
Big Loomis tiến thẳng đến quán bar cần tìm, bước vào văn phòng phía
trong, và một lát sau quay ra cùng một người hầu bàn không xác định được
tuổi tác; anh ta chắc hẳn chưa quá ba mươi lăm nhưng trông như bảy mươi,
vì đã toàn phần sa đọa, và tôi lấy làm lạ là anh ta vẫn giữ được việc làm. Tuy
nhiên, khi nói, anh ta lại tỏ ra linh lợi và có sức thuyết phục: “Thưa các ông,
các ông tìm đến tôi là đúng người đúng việc rồi đấy. Anh bạn Big Loomis
của tôi là người có thể tin cậy được và tôi có tin tốt lành cho các đối tác của
anh ấy đây.” Anh ta hạ giọng, len lét đi đến bên chúng tôi và thì thào qua
hàm răng đen xì, “Hoa ở Lebanon chưa bao giờ thơm hơn.”
“Gì cơ?” Cato hỏi.
“Từ Lebanon, đậm đà không gì sánh được,” anh ra nháy mắt nói.
“Gì cơ?” Cato hỏi một lần nữa.
“Cần sa!” anh ta gắt. “Cần sa chất lượng từ Beirut.”
“Kasim,” Big Loomis lên tiếng, quàng tay qua vai người hầu bàn, “việc
chúng tôi quan tâm đêm nay là chuyện gì đã xảy ra với một cô gái Anh,
Monica Braham.” Kasim không để lộ dấu hiệu nào cho thấy đã hiểu, nhưng
Loomis đã nói tiếp, “Cô ấy là cô gái danh giá nhất đấy. Mười bảy tuổi. Con
gái Ngài Charles Braham, London.”
“Và Vwarda,” Kasim nói, nét mặt không hề thay đổi.
“Cùng là một người thôi,” Loomis nói. “Và tối nay chúng tôi sẽ điện thoại
cho Ngài Charles. Ngài sẽ vô cùng quan tâm đến nơi ở của con gái.”
“Ngài sẽ trả công cho những thông tin hữu ích chứ?” Kasim hỏi.
“Tôi sẽ trả,” tôi cắt ngang.