nên từ 32 đến 34 ATP.
- Tổng kết lại, tổng số ATP được tạo ra là: 2 ATP (từ đường phân) + 2
ATP (từ chu trình Crep) + 32 hoặc 34 ATP (từ chuỗi chuyển electron và
tổng hợp ATP nhờ ATP - sintetaza) = 36 hoặc 38 ATP. Đạt hiệu suất 36 hay
38 ATP là tùy thuộc vào loại tế bào. Ví dụ đối động vật, với tế bào nơron
hiệu suất là 36 ATP còn đối với tế bào gan, hoặc tế bào cơ tim đạt 38 ATP.
- Hiệu suất chuyển hóa năng lượng của quá trình hô hấp là: một mol
glucoz khi bị phân giải sẽ giải phóng 686kcal. Số năng lượng cần tích vào
ATP là 7,3kcal/mol. Như vậy trong 38 ATP đã tích được: 38 x 7,3 =
277,4kcal. Hiệu suất chuyển hóa năng lượng sẽ là: 277,4/686 ~ 0,4. Như
vậy có khoảng 40% năng lượng được chuyển hóa từ glucoz sang ATP. Số
60% năng lượng còn lại được chuyển thành nhiệt (ví dụ, cơ thể chúng ta sử
dụng một phần số nhiệt năng để duy trì thân nhiệt -37°C), số còn lại bị thoát
ra môi trường.
1.3.3. Quá trình lên men (fermentation)
Như trên đây ta đã thấy sự phân giải glucoz đến tận cùng để tổng hợp
ATP xảy ra với sự có mặt của oxy như là chất nhận electron cuối cùng. Nếu
không có oxy thì quá trình oxy - photphorin hóa bị đình trệ. Tuy nhiên có
nhiều dạng tế bào oxy hóa chất hữu cơ để tích lũy ATP không cần đến oxy,
đó là sự lên men. Ta đã biết qua quá trình đường phân, glucoz bị oxy hóa
phân giải thành 2 phân tử piruvat (piruvat là dạng ion hóa của axit piruvic)
không cần đến oxy (cần nhớ là sự oxy hóa không nhất thiết phải phản ứng
với oxy mà là sự giải phóng electron và proton từ một chất nào đó). Như
vậy ở đây chất nhận electron (nhân tố oxy hóa) là NAD+ chứ không phải
oxy. Chất NAD+ khi nhận electron (nhận proton) sẽ biến thành NADH
(nhân tố khử), một số năng lượng được giải phóng được sử dụng để tổng
hợp 2 phân tử ATP. Nếu có oxy, piruvat sẽ được tiếp tục oxy hóa trong ty
thể. Sự lên men là một trường hợp biến đổi của quá trình đường phân trong
điều kiện thiếu oxy (kỵ khí). Trong điều kiện không có oxy, piruvat không
đi vào quá trình oxy - photphorin hóa mà sẽ bị biến đổi thành các sản phẩm