miền Nam Việt Nam. Nay nhờ chăn nuôi mà chúng tôi có tiền để mua thêm
chiếc xe đạp nữa. Trong bài thơ Nhật ký Bến Ngự, kỷ niệm 10 năm ngày
cưới vợ, tôi có viết một đoạn, trong đó có hình ảnh đứa trẻ bán rong heo
này:
... khi yêu điều chi cũng thành dễ nhớ
có khi mô anh nghĩ mình sẽ dừng lại một nơi?
mới đó mà cây phượng già bên cầu đã mười lần thắp lửa
mới đó mà đứa trẻ bán rong heo
đã thành chàng trai mũ phớt quần bò...
mười năm mười năm ơi
mỗi chiều tan tầm em lội quanh chợ cá
cái ăn mắt hơn đồng tiền
đồng tiền mắt hơn kiếp người khốn khổ.
Chuyện cán bộ công chức nuôi heo ở Sài Gòn, Hà Nội hay Huế thời
bao cấp có thể viết cả ngàn trang hồi ức. Toàn chuyện cười oái oăm. Một
buổi sáng đi làm, tôi đóng cửa chuồng heo không kỹ, heo vào buồng ngủ
phá phách, ỉa đái hết cả ra nhà. Lại phải nhờ anh em cơ quan đuổi bắt heo
vào chuồng. Bực thì có bực nhưng sợ nhất “thủ trưởng” ốm. Khi heo ốm bỏ
ăn, vợ tôi đi làm không yên. Chốc chốc lại về áp tay vào đầu “thủ trưởng”
xem còn nóng không, như rờ trán con trẻ khi nó sốt vậy.
Trong túng quẫn, ai cũng tìm cách để kiếm sống. Nấu cám heo thì phải
đun bằng than tổ ong vì đun củi rất đắt. Vợ chồng tôi đã nhiều lần chen lấn,
xô đẩy nhau vào kho nhà máy xay xát gạo ở An Cựu để xúc trấu về đun bếp
vì củi cung cấp không đủ đun. Mồ hôi mồ kê, tóc tai bám đầy bụi cám. Lấy