nuôi trên tàu, giống chó vùng Đất mới, hãy còn nhỏ, có đôi chân to, vụng
về và dại dột. Hai người lấy tay trêu nó, nó cắn vào cho đau tay. Yann nhăn
mặt, tức lên nện mạnh làm con chó ngã lăn ra sủa ầm.
Yann tốt thật, nhưng vẫn còn mang thói dữ tợn, một cái vuốt ve dịu dàng ở
anh ta nhiều khi cũng mau biến thành một động tác tàn nhẫn.
* *
*
Con tàu của họ tên là Marie, thuyền trưởng là Guermeur. Hàng năm họ
đem tàu đến đánh cá ở vùng nước lạnh, nơi này mùa hè không có đêm.
Con tàu cũ lắm rồi, cũ như bức tượng Đức Mẹ bằng sứ, thần hộ mệnh
của họ. Mạn thuyền dày cộp, then nứt nẻ, xù xì, thấm nước và muối nhưng
vẫn khoẻ, thơm mùi hắc ín. Lúc đậu một chỗ, con thuyền có vẻ nặng nề,
cục mịch, nhưng khi gió tây thổi, nó trở lại khoẻ khoắn, nhẹ nhàng như hải
âu được gió đánh thức dậy. Nó biết cách lướt sóng lanh lẹn hơn cả những
con thuyền mới đóng thanh thấu hiện đại.
Còn sáu thuỷ thủ và thằng nhỏ là người xứ Islande, những dân đi biển
dũng cảm. Họ thường sống rải rác ở Paimpol và Trégueer, tận tuỵ với nghề
chài lưới từ đời cha đến đời con.
Họ gần như chẳng bao giờ được thấy mùa hạ của đất Pháp. Cứ cuối mùa
đong họ cùng với bạn chài khác chịu lễ cầu phúc ở Paimpol để xuất hành.
Vào ngày ấy, một trạm nghỉ được dựng lên tại bến cảng; nó bắt chước hình
dáng một hang đá, chung quanh là những cái neo, những mái chèo, những
lưới, tất cả vớt nhặt từ khắp nơi đem về. Chính giữa là tượng Đức Mẹ đồng
trinh, thần hộ mệnh của thuỷ thủ, được rước từ trong nhà thờ ra. Với đôi
mắt giả, từ thế hệ này qua thế hệ khác, bức tượng nhìn những người ra đi
gặp may mắn cũng hệt như nhìn những kẻ có đi không về.
Lễ cầu phúc xong thì đến tiết mục diễu hành. Những người mẹ, người
vợ, người chị, người em, người yêu đi quanh hải cảng một vòng. Các tàu
xứ Islande cắm cờ vẫy chào khi đi ngang qua. Linh mục dừng lại trước mỗi