chết có bốn lối chôn : thủy táng : quăng xác dưới sông, hỏa táng : đốt ra
tro, thổ táng : chôn dưới đất, điểu táng : bỏ xác ngoài đồng cho chim
ăn ».
Sau này nhờ các nhà khảo cổ tìm được những di tích dưới lòng đất
chứng minh dân Phù Nam thạo nghề đánh cá, nghề trồng tỉa và chăn
nuôi, họ nuôi voi, bò, cừu, heo, trồng lúa gieo một lần gặt ba năm, rau,
đậu, mía, bông vải, trầu và dâu nuôi tầm. Về ngành kỹ nghệ kim loại, họ
biết chế kim khí : sắt, đồng, chì, kẽm vàng bạc (tìm thấy ở Óc Eo). Núi
MOSO có mỏ sắt là nơi cung cấp sắt cho họ. Nghề làm đồ gốm, nghề
dệt, nghề nhuộm hàng vải bằng thảo mộc, nghề làm đường mía ép bằng
hai thớt đá rất thạnh vượng. Ngành nông nghiệp cũng phát triển mạnh.
Các vị Quốc vương sóc chăm đến việc kiến trúc và gìn giữ những hồ
chứa nước và kinh đào đem nước vào ruộng. Chính các Ngài đã biến đổi
vùng bùn lầy ở miền Nam thành vườn ruộng phì nhiêu bằng cách đào
hơn 200 cây số kinh để nước ứ đọng thoát ra biển. Ngành điêu khắc bành
trướng không kém, hiện thời còn vài di tích như tượng thần VISHNOU 8
tay bằng đá hay bằng gỗ, những vị thần Bà-la-môn như VISHNOU,
ÇIVA, INDRA. Họ thạo đường thủy, thường ngồi thuyền đi buôn bán xa.
Người ngoại quốc tới lui trao đổi hàng hóa như Ấn Độ, Trung Hoa, Ba
Tư, La Mã, theo các con sông, rạch vào Óc Eo, Thị trấn trăm đường và
thành Angkor Borei. Họ đã có dùng tiền bằng vàng, bằng bạc, khắc hình
các giống vật, hình mặt trời hay con ốc và tục lệ cắt tiền để có đơn vị nhỏ
hơn.
Năm Thiên Giám thứ 2 (T’IEN KIEN 503) triều Vua Võ-Đế (502-
550), Vua Jayavarman phái Sứ giả sang Trung Hoa. Bấy giờ nhà Tề bị
nhà Lương (502-556), lật đổ. Vị Hoàng đế là Lương-Võ Đế tiếp nhận
tặng phẩm : một tượng Phật bằng san hô và nhiều sản phẩm nội hóa.
Hoàng đế Tàu là người sùng đạo Thích đã xây cất ngót trăm ngôi chùa
khắp lãnh thổ.
Dạo ấy, Phù Nam ở vào thời cực thịnh, được Trung Hoa chú ý và nể
vì. Nhân cuộc tiếp đón phái đoàn Sứ giả này, Vua Lương Võ-Đế ban