Năm 1963, đại diện phái đoàn Ba Lan, một trí thức Do Thái, giáo sư luật
học ở trường đại học Varsava, rất được người Việt Nam mến mộ. Một buổi
tối ở Hà Nội trong một cuộc chiêu đãi, ông được gặp riêng một người đơn
giản và mờ nhạt người ta có thể thấy đang cày ruộng hơn là con trai của
nguyên thư ký cho ông vua cuối cùng triểu Nguyễn bị người Pháp đưa đi tù
đày. Đấy là ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng Chính phủ Hồ Chí Minh. Họ
không cần người phiên dịch vì cả hai nói tiếng Pháp.
- Ông cho biết, vị thủ tướng hỏi, các viên tướng Mỹ luôn luôn khoe
khoang có thể thắng trong cuộc chiến tranh ở miền Nam. Thực sự họ có tin
như thế không ?
- Theo phát hiện của tôi thì có đấy, họ tin như thế.
- Ông nói đùa, Phạm Văn Đồng tiếp tục. Họ nói vung lên như vậy là để
tuyên truyền nhưng chắc chắn CIA đã nói sự thật với họ trong các báo cáo
mật.
- Tôi không biết CIA đã nói gì với họ. Nhưng tôi có thể đoán chắc với
ông họ rất tin vào điều họ nói.
- Còn tôi, tôi rất khó tin lời ông. Các viên tướng Mỹ không thể ngây thơ
đến như vậy !
Khi các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Năm bắt đầu khai thác trận ấp Bắc
như một xúc tác cho cách mạng miền Nam, họ nhận thấy vị đại diện Ba
Lan nói đúng và phát hiện ra nhiều điều khác nữa. Họ nhận thấy các đối thủ
Mỹ cung cấp cho họ những gì cần thiết để căn bản phá vỡ tương quan lực
lượng ở miền Nam Việt Nam và những gì Mỹ làm cho đồng minh Nam
Việt Nam tạo điều kiện dễ dàng cho nhiệm vụ của họ.
Đến tháng Giêng năm 1963, Hoa Kỳ đã cung cấp cho cộng sản Việt Nam
vũ khí đủ để xây dựng ở miền Nam một quân đội có khả năng đương đầu
và đánh bại Quân lực Cộng hòa. Hơn 130.000 súng tiểu liên, súng tự động,
đại liên, lựu đạn, hàng nghìn điện đài phân phối cho quân bảo an, cảnh sát
địa phương và một hỗn tạp đơn vị bất thường được CIA tài trợ và trang bị.
Việt cộng chỉ việc sử dụng. Sáu tháng sau, con số lên gấp đôi để đạt khoảng
250.000 vũ khí phân phối cho vùng nông thôn, nghĩa là tiềm tàng bố trí cho
Việt cộng. Vũ khí của Quân lực Cộng hòa cũng có thể bắt được nhưng