lược “mà ông kèm theo những bức ảnh nhà cháy. Ít lâu sau đó, Nolting gặp
ông trong một bữa ăn tối.
- Thưa ông Sully, tại sao ông luôn luôn thấy những lỗ hổng trong pho
mát chín ?
- Thưa ông đại sứ, bởi vì có những lỗ hồng trong pho mát chín.
Diệm trục xuất Sully vào tháng Chín năm 1962 theo kiến nghị chính thức
của đại sứ và bản thân ông ta thở phào nhẹ nhõm.
Harkins và Nolting không bao giờ ngưng phàn nàn về chúng tôi, hy vọng
các tổng biên tập thay thế chúng tôi bằng những người dễ thông cảm hơn.
Họ cho rằng những bài báo của chúng tôi chỉ là những hình ảnh nhất thời
không phản ánh được thực tế sâu sắc của cuộc chiến tranh như họ chỉ ra
trong “bảng tổng kết lớn “thu thập thông tin từ nhiều nguồn.
Ấp Bắc là một bảng tổng kết lớn làm mất giá trị của họ. Vì vậy chúng tôi
ra sức khai thác trận đánh và khi Vann giận dữ, ngấm ngầm liên minh với
chúng tôi, chúng tôi vội vã nắm lấy cơ hội. Vann không làm việc đó mà
không suy nghĩ chín chắn. Trước khi sang Việt Nam, anh không quan hệ
thường xuyên với báo chí và trong điều kiện của thể chế, chỉ dùng những
thông tin có lợi cho cấp trên chứ không phải chống lại họ. Anh không hiểu
nội dung báo cáo của anh và lời bình của Porter chỉ lướt nhanh qua tâm trí
các tướng trong phái đoàn Lầu Năm Góc như một trận mưa rào trên mái
nhà dốc. Nhưng qua những nguồn tin của anh trong ban tham mưu Sài Gòn,
anh đã biết Harkins nói với Washington như thế nào và anh quyết định cản
trở ông ta. Để báo động với các nhà cầm quyền và tránh thảm họa, anh
quyết tâm vượt qua đầu vị tướng tổng chỉ huy, sử dụng các nhà báo làm
người phát ngôn.
Các cố vấn Mỹ khác và những người Việt Nam cho chúng tôi biết nhiều
về cuộc chiến tranh này nhưng người quan trọng nhất là Vann. Anh cho
chúng tôi kinh nghiệm còn thiếu và những điều xác thực đưa lại trọng
lượng cho những bài viết. Anh cho phép chúng tôi tuần tự nêu lên thái độ
chủ quan chính thống với những điểm cụ thể mỗi lúc càng tỉ mỉ. Anh biến
chúng tôi thành một đoàn phóng viên phục vụ cho luận điểm của anh.