ở đất nước này và là kết quả của một sự đồng tâm nhất trí. Không, Porter
không quá tàn ác.
Harkins bề ngoài tỏ ra thân mật khi Porter đến gặp ông chào từ biệt. Vị
tướng tổng chỉ huy cho ông biết đã đề nghị thưởng huân chương cho ông
qua một năm phục vụ nhưng không nói gì về bản báo cáo. Các thành viên
trong ban tham mưu dù sao cũng không che giấu, đã báo trước với Porter
trước khi ông đi gặp Harkins là vị tướng rất xót xa và xem ông là thành
viên bất nghĩa trong ê kíp ông ta. Porter cảm thấy sự căng thẳng dưới bề
ngoài lịch sự ấy. Ông biết Harkins nghĩ “Tay đại tá dự bị nông dân đần độn
này nghĩ mình là gì mà bảo mình nên chỉ đạo cuộc chiến tranh này như thế
nào ?”. Bình thường đứng trước một tướng bốn sai Porter hơi dễ bị xúc
động, kể cả khi Harkins thân mật với ông như thế vào những lúc khác. Lần
này, ông hoàn toàn bình tĩnh. Lần đầu tiên sau gần 31 năm được gắn lon
trung úy, Porter không quan tâm đến sự cổ vũ của một vị tướng. Nếu phải
làm cho Harkins giận điên lên để thấy sự thật thì cũng mặc. Ông đã làm
nhiệm vụ và bây giờ về nhà.
Tính thật thà của Porter làm ông mất đi bản báo cáo ông xem như lá bùa
hộ mệnh của mình. Ông rất sợ có người trao đổi nó với báo chí nên đánh
máy bản cuối cùng, hủy bỏ mọi bản nháp, nhờ Winterrbottom đóng dấy
“tuyệt mật “và đích thân đưa cho trưởng ban tham mưu của Harkins. Ông
cẩn thận không giữ cho mình một bản sao như những sĩ quan khác đã làm.
Khi ông rời Việt Nam rồi, Harkins kiểm tra lại thấy chỉ mình có một bản
độc nhất, báo với ban tham mưu phải xem lại, sửa chữa rồi chuyển về
Washington. Như vậy là bản báo cáo biến mất vĩnh viễn. Porter không được
triệu tập đến Lầu Năm Góc để báo cáo về kinh nghiệm của mình ở Việt
Nam như trường hợp chung của những sĩ quan cao cấp khác. Harkins đã
chú ý tới điều đó.
Trong một cuộc họp ban tham mưu, Winterrbottom bảo vệ trung thực
bức giác thư ngày mồng 8 tháng Hai của Vann, nói với vị tướng tổng chỉ
huy :
“Điều duy nhất không ổn trong bản báo cáo này là mọi cái ở đấy đều
đúng”.