biệt đông đúc. Họ có thể có hàng triệu người chết như tham mưu trưởng
Không quân Curtis LeMay mong muốn “Sẽ dội bom cho đến lúc họ trở lại
thời kỳ đồ đá”. Những người Hà Nội cũng sẵn sàng nhận nguy cơ ấy.
Nhưng có một điều Hoa Kỳ không thể làm được : bẻ gãy lòng dũng cảm
của họ.
Dù những dọa dẫm của Mỹ đến mức nào thì cũng đã quá chậm để rút lui.
Những người ở Hà Nội biết nếu ra lệnh cho cán bộ Viẹt cộng được đưa vào
miền Nam dừng lại, họ sẽ thoát khỏi sự kiểm soát của mình và tiếp tục cuộc
chiến họ đang thắng. Nhưng Hà Nội sẽ không bao giờ ra một lệnh như thế
vì điều đó sẽ phủ nhận của chính sự tồn tại chung “Nước Việt Nam là
một…” Hiến pháp của họ đã công nhận như thế.
Cả năm 1964, họ chứng tỏ lòng dũng cảm không lay chuuyển, tạo dựng
Việt Minh thứ hai cho cuộc cách mạng miền Nam. Vào mùa xuân, lần đầu
tiên xuất hiện những vũ khí hạng nặng mà tàu thuyền bí mật đưa vào những
đêm không trăng trong nhiều tháng. Súng phòng không 12,7 ly của Xô Viết
thể hiện hiệu lực đáng sợ đối với trực thăng và máy bay tiêm kích. Việc
luyện tập và tổ chức đánh trận tăng suốt cả năm. Ngày mồng 1 tháng Giêng
năm 1963, Việt cộng chỉ có một lực lượng trong khoảng 23.000 quân chủ
lực và du kích địa phương tập hợp thành 25 tiểu đoàn, quân số từ 150 đến
300 người. Không đầy hai năm sau, quân số tăng gấp đôi, lên đến 56.000
binh lính được tập luyện tốt. 25 đơn vị rời rạc đã biến đổi thành 73 tiểu
đoàn trang bị mạnh, 66 đơn vị bộ binh, 7 tiểu đoàn vũ khí hạng nặng và
súng phòng không. Tiểu đoàn bộ binh là những lực lượng can thiệp đáng
sợ, mỗi tiểu đoàn gồm 600 đến 700 người với toàn bộ hậu cần. Đội quân
56.000 binh lính ấy được 40.000 người bổ sung những dịch vụ kèm theo,
cung ứng, luyện tập ,cấp cứu y tế.
Phải trải qua 6 năm cực nhọc, đau khổ để khoảng 2.000 Việt Minh thoát
khỏi hiểm họa trong mùa xuân năm 1957 trở thành 23.000 chiến sĩ còn
thiếu thốn của trận ấp Bắc. Nhưng không đầy hai năm với sự hỗ trợ của
Diệm và người Mỹ đủ để hình thành số lượng đáng sợ những tiểu đoàn vào
tháng Chạp 1964.