chức lại làm rõ những vấn đề khác mà anh cũng đề nghị những biện pháp
giải quyết, được chấp nhận và giao cho anh áp dụng. Anh được bổ nhiệm
chỉ huy hậu cần và quan hệ ngoại giao của ban quản lý. Khi có một nhân
vật dân sự quan trọng hoặc một vị tướng hay đô đốc hải quân đến
Heidelberg, thiếu tá Vann đứng trình bày trong phòng họp làm lóa mắt vị
khách kiệt xuất vì công việc xuất sắc của ban quản lý hậu cần của quân đội
Mỹ ở châu Âu. Wibur Brucker, bộ trưởng Quốc phòng dưới thời tổng thống
Eisenhower một lần đi thanh tra đến tổng hành dinh vào tháng Bảy năm
1956. Thiếu tá Vann giải thích với ông toàn bộ hệ thống tiếp tế ở châu Âu .
Ban quản lý hậu cần có nhiều việc phải làm trong những năm căng thẳng
này và Vann xác định đã làm tốt vì thực tế ban của anh là như vậy. Sau đợt
thanh tra, Brucker và những vị khách khác viết những bức thư khen ngợi
kèm vào hồ sơ của Vann và cấp trên vẫn lưu ý những thực hiện khách của
anh cũng được ghi lại để đề bạt trong những lần thăng cấp tương lai. Hai
lần anh được giao tháp tùng những viên tướng mới đến đi thăm các đơn vị
họ sẽ chỉ huy. Đấy là vinh dự của một thiếu tá trẻ. Anh không ngần ngại
khuyên các viên tướng về những vấn đề phải hỏi và về giá trị những câu trả
lời mà người ta giải đáp cho họ.
Bruce Palmer nói “Vann có một tương lại rực rỡ trước mắt”. Thực tế
tương lai của thiếu tá Vann đầy hứa hẹn. Cùng với Mary Jane và các con,
anh rời nước Đức về Hoa Kỳ trong mùa hè 1957, được một đợt nghỉ phép
dài trước khi đi học trường Đại học quân sự Fort Leavenworth vào mùa
thu. Sau hai năm ở Heidelberg, cấp trên của anh cho điểm cao nhất về trình
độ “Một sĩ quan khác thường có giá trị hiếm thấy”, có năng khiếu về công
việc tham mưu như việc chỉ huy một đơn vị. “Con người thể hiện một năng
lực lớn lao đối với quân đội và phải là một trong những người chỉ huy
tương lai”.
Ở Fort Leavenworth , John đáp ứng những hy vọng của cấp trên. Thứ
hạng anh chiếm được chứng tỏ anh rất già dặn vê nghề nghiệp nhờ vào sự
chuyên cần trong suốt những năm ấy. Năm 1947, anh ra trường bộ binh
trong số những người cuối cùng. Năm 1952, anh là một trong 20 người