sự việc tồi tệ hơn, các cố vấn sẽ tập hợp lại để di chuyển đi ở một sân trực
thăng khác phía tây tuyến phòng ngự mà trước đây máy bay Cobras dùng
làm chỗ đỗ.
Suốt ngày chủ nhật, quân Bắc Việt tiếp tục bắn tên lửa vào những xe
tăng đậu trong vành đai. Trong số tám xe hoạt động buổi sáng, đến chiều
chỉ còn một chiếc. Tối đến Đạt lấy một chiếc ghế, ngồi xuống và nói với
Kaplan “Ngày mai chúng ta sẽ bị chiếm”.
Mười giờ tối, họ được báo cáo các lực lượng tỉnh trong một ấp phía tây
bắc gần đường 14 nghe tiếng xe tăng. Rồi một tiểu đoàn đóng trên độ cao
nhìn xuống đường thông báo qua điện đài cũng nghe tiếng xe bọc thép và
thấy đèn pha của đoàn xe. Kaplan đề nghị Không quân gửi đến một máy
bay C-130 Spectre có trang bị do thám bằng tia hồng ngoại. Phi công thông
báo “Trên đường có 11 chiếc xe tăng”. Họ tiến về phía đông Dak Tô. Đại
úy Richard Cassidy, cố vấn của huyện chạy vội đến cửa ra vào Dak Tô,
thấy ánh đèn pha ngụy trang của xe quân sự cách đấy 500 mét. Chiếc máy
bay Spectre thả một chùm pháo sáng; Cassidy thấy đoàn xe tăng ngoằn
ngoèo tiến về phía mình. Ông hét lên “Họ bắn vào chúng ta đấy”. Nhưng
những chiếc xe tăng không nổ súng. Cassidy không phải sợ. Xe bọc thép
được lệnh bỏ quan nơi đồn trú của ông, đi qua trước mặt không bắn phát
nào.
Quân Bắc Việt tiến hành một cuộc hành quân họ gọi là “đánh vào đầu
rắn”. Đây là một chiến thuật cũ thường dùng trong chiến tranh nhưng có vẻ
luôn luôn mới khi thực hiện bất ngờ. Các lực lượng cộng sản không quan
tâm đến những căn cứ Nam và Sáu cùng tất cả những tiểu đoàn xung quanh
mà xông thẳng vào tổng hành dinh của Đạt. Mười lăm chiếc tăng, không
phải mười một, tiến xuống phía nam là những T-54 Xô viết của những năm
50, thuộc về Sư đoàn 2. Chúng đi theo đường mòn Hồ Chí Minh trong
tháng Hai, kéo theo những rơ moóc đạn dược và các bình đi ê den, chờ ở
Lào hai tháng và vào lại Việt Nam hai tuần lễ trước. Những ngày cuối cùng
trước cuộc tấn công, chúng giấu mình phía trên Tân Cảnh trong các thung
lũng gần những con đường mòn ra đường 14.