Lực lượng cảnh sát tỉnh giữ chiếc cầu đầu tiên xe tăng Bắc Việt phải
vượt qua, có súng ba dô ka . Họ nhận được lệnh phục kích nhưng bỏ trốn.
Khi Kaplan bàn với Đạt cho triển khai các toán chống tăng của Quân lực
Cộng hòa, ông ta trả lời :
- “Đồng ý, sẽ làm”.
Nhưng quân lính vẫn bám chặt vào hầm hố.
Khi Kaplam bảo cho gọi những xe tăng khác đến, Đạt trả lời :
- “Tôi ra lệnh rồi”.
Nhưng xe tăng không động đậy. Còn chiếc ca nông 106 đặt ở bờ đường
14 không hề bắn một loạt đạn.
Trong thời gian đó, chiếc máy bay ném bom Spetrec cố làm công việc
thay Quân lực Cộng hòa. Các kỹ thuật viên khéo léo đưa lên máy bay một
súng cối 105. Khẩu súng bắn rất chính xác vì có máy tính chỉ huy và máy
tính được thông báo bằng máy do thám. Bắn ba đợt phi công tuyên bố đã
“bắn trúng “một chiếc tăng. Nhưng máy bay Spectre không được báo trước,
không mang theo vũ khí chống tăng mà chỉ là đạn nổ bình thường. T-54 là
một loại xe to khỏe. Ba người trong xe bị thương; chỉ một chiếc bị bỏ lại.
Cảnh sát bắt người lái, một người miền Bắc 18 tuổi dẫn vào đồn chỉ huy địa
phương. Một nhóm nhỏ quân Bắc Việt đến can thiệp ngay, đuổi lính cảnh
sát, đưa chiếc tăng lên đường đi theo những chiếc kia về hướng trạm chỉ
huy của Đạt.
Kaplan gọi trọng pháo can thiệp với chiếc Spectre điều chỉnh tầm bắn.
Xe tăng tản ra ngay từ loạt đạn đầu. Các quan sát viên Bắc Việt hướng dẫn
bắn vào đồn trú quân, bây giờ tổ chức phản pháo. Các pháo thủ Quân lực
Cộng hòa chạy vào hầm trú ẩn ngay từ những viên đạn cối đầu tiên.
Người phó của Kaplan kêu lên với Đạt :
- Đại tá, cho trọng pháo bắn đi chứ !
- Họ đang bắn đấy, đại tá ! Đạt trả lời.
Trở lại Tân Cảnh sáng ngày 24 tháng Tư năm 1972 là John Vann viết bản
di chúc đời mình. Lần cuối cùng anh về thăm em trai ở Norfolk, Frank J.
hỏi anh có sợ chết ở Việt Nam không. Vann đã trả lời “Lạy Chúa, không”.
Anh thoát khỏi biết bao tình huống xấu nên tin chắc chiến tranh không bao