đại. Tương tự như vậy, Venezia, Roma, Đức, Áo, Hungary, và
những thế lực châu Âu đang phát triển nhanh khác đều đã sinh ra,
hoặc ít ra là đã được thai nghén và chín muồi trong hoàn cảnh bắt
buộc phải tự vệ chống lại những cuộc tấn công của những người du
mục thảo nguyên châu Á. Như Mackinder đã viết:
Trong phần lớn thời Trung cổ sớm, những con tàu cướp biển
của người Viking tung hoành trên Biển Bắc, người Saracen và
người Moor Hồi giáo chống lại đạo Thiên Chúa cũng làm điều
tương tự tại Địa Trung Hải, còn người Turk giỏi cưỡi ngựa từ
châu Á thì đã đột kích không ngừng trên lưng ngựa vào chính
trái tim của bán đảo Thiên Chúa giáo. Như vậy, châu Âu khi đó
bị kẹt trên cối dưới chày, một tình thế gây ra những sức ép
đáng kể, nhưng rốt cuộc đã tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của nó
như một châu Âu thời cận đại. Chiếc chày ở đây là sức mạnh
lục địa từ Heartland.
Trong khi đó, nước Nga, vốn được bảo vệ bởi những trảng rừng
chống lại nhiều bọn người xâm nhập cuồng bạo, rốt cuộc cũng đã bị
chinh phục bởi đám Rợ Lều Vàng (Golden Horde) Mông Cổ vào thế
kỷ XIII. Do đó, nước Nga đã không được hưởng lợi do Thời đại
Phục hưng của châu Âu mang lại, và mãi mãi duy trì những cảm xúc
cay đắng nhất của mặc cảm về sự thua kém và bất an. Là đế quốc
đất liền tiêu biểu nhất, không có rào cản tự nhiên để chống sự xâm
lược, chỉ có rừng là vật che chở tự nhiên, nước Nga sẽ mãi mãi nếm
trải trạng huống giống như là nó bị chinh phục một cách tàn bạo, và
kết quả là sẽ mang tâm lý bị ám ảnh không ngừng bởi sự bành
trướng và việc phải giữ an toàn lãnh thổ, hoặc ít ra là thống trị
những lãnh thổ láng giềng của mình.