chìa khóa cho sự thống nhất đất nước này, bởi vì nó tạo dễ dàng
cho công cuộc chinh phục của miền Bắc đối với miền Nam thời nhà
Đường và nhà Tống, giúp cho việc củng cố địa lý nông nghiệp Trung
Quốc. Như vậy, một hành động riêng lẻ của con người - đào một
con kênh - cũng tỏ ra có ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng. Chính vì
thế, địa lý chỉ có ý nghĩa tương đối, hay là Quyết định mang tính xác
suất, và “nhân định thắng thiên cũng nhiều”.
Có người lại hoàn toàn không chấp nhận Quyết định luận địa lý.
Ví dụ như Isaiah Berlin (Chương I, chú thích 5), người luôn bảo vệ
chủ nghĩa thực dụng tư sản và những thỏa hiệp theo kiểu “chờ đợi
và xem” trước sự thử nghiệm chính trị, là người ghét Quyết định
luận địa lý, văn hóa và mọi dạng Quyết định luận khác, không chấp
nhận để bất kỳ ai tự phó thác đời mình cho số phận. Nhưng theo
A.L. Sanguin (một tác giả người Pháp), việc coi thường địa lý sẽ chỉ
tạo cơ hội sinh ra những tai họa, những thứ đến lượt mình lại biến
chúng ta thành nạn nhân của chính địa lý (tức là phải gánh chịu sự
trả thù của địa lý). Ngày nay, trên quan điểm môi trường, những ví
dụ tương tự cũng nhiều vô kể.
Nicholas J. Spykman, giáo sư Đại học Yale, chiến lược gia lớn
người Mỹ gốc Hà Lan thời kỳ đầu Thế chiến II, cũng đánh giá rất
cao vai trò của địa lý, khi ông viết vào năm 1942 rằng “Địa lý không
tranh luận. Nó chỉ đơn giản là nó.” Địa lý giúp ta nhìn nhận tình hình
và các sự kiện theo dài hạn. Địa lý là yếu tố cơ bản nhất trong chính
sách đối ngoại của các quốc gia, bởi vì nó là cố định nhất (Chương
II).
Vậy chúng ta nên nhìn nhận vấn đề này thế nào? Một thời gian
dài, chúng ta cũng đã quá quen với những khẩu hiệu “làm chủ thiên
nhiên”, “nghiêng đồng đổ nước ra sông”, “có sức người, sỏi đá cũng