Quốc). Như Mackinder đã viết, “những biến số địa lý tham gia vào
cuộc chơi có thể dễ đo đếm hơn và cố định hơn so với yếu tố con
người.” Dù quyền lực đó được thực hiện nhân danh Sa hoàng hay
nhân danh Quốc tế thì điều đó cũng không mấy quan trọng, chỉ có
những lực ẩn sâu, đại loại gần như lực kiến tạo, mới là đáng kể, mà
kỹ thuật và địa lý chính là những lực như thế. Có điều mỉa mai là chỉ
sau bài phát biểu nổi tiếng của Mackinder hai tuần lễ, hải quân Nhật
đã tấn công Cảng Arthur, ở phía nam Mãn Châu, khởi động trận
chiến đầu tiên của cuộc chiến tranh Nga-Nhật, và đã kết thúc với
chiến thắng vĩ đại của Hải quân Nhật Bản một năm sau đó, trong
trận đánh tại eo biển Tsushima. Trong khi Mackinder tiên tri về tầm
quan trọng của sức mạnh lục địa, thì chính sức mạnh biển lại đánh
bại một sức mạnh lục địa trải rộng bậc nhất trên Trái đất trong cuộc
đụng độ sớm này của thế kỷ XX.
Bất chấp tình tiết trái khoáy này, thuyết tiền định của Mackinder
đã được khẳng định bởi sự nổi lên của sức mạnh Liên Xô, với khu
vực ảnh hưởng được mở rộng vượt trội trong nửa sau của thế kỷ
XX, cũng như bởi hai cuộc Thế chiến, như ghi nhận của nhà sử học
Paul Kennedy, từng diễn ra chủ yếu ở các vùng đệm như đã được
Mackinder mô tả, trải dài từ Đông Âu đến Himalaya và duyên hải
Thái Binh Dương của Trung Quốc. Trong khoảng thời gian giữa
cách mạng Nga và sự tan rã của Liên Xô, 60.000 km đường sắt đã
được xây dựng ở Trung Á và Sibir.
Mặt khác, chiến lược ngăn chặn được thực thi vào đầu thời kỳ
Chiến tranh lạnh từng phụ thuộc phần lớn vào các căn cứ ở Trung
Đông và Ấn Độ Dương. Sự hiện diện gần đây của sức mạnh Hoa Kỳ
ở Afghanistan và Iraq, cũng như tình trạng căng thẳng luôn ở mức
cao với nước Nga liên quan đến số phận chính trị của Trung Á và