đó nảy sinh thái độ văn hóa trịch thượng về tính ưu việt, tương tự
như điều quan sát thấy trong thế giới Kitô giáo phương Tây. Từ
những năm cuối thời nhà Chu, trong thế kỷ III TCN, Trung Quốc có
văn hóa trồng trọt đã bắt đầu đồng hóa dân man di từ các vùng
ngoại vi của nó”. Và sau đó, bắt đầu từ nhà Hán trong thế kỷ II TCN,
người Trung Quốc sẽ giao lưu với những nền văn hóa khác, như
Roma, Byzantine, Ba Tư, và Arab, và do vậy đã nhận ra tính chất
khu vực của nền văn minh của mình. Việc lãnh thổ Trung Quốc hiện
nay bao gồm cả sa mạc và đất nông nghiệp là kết quả của một quá
trình lịch sử lâu dài mà cho đến nay vẫn thành công, khiến cho sức
mạnh của nước này tạm thời dựa trên sự ổn định địa lý.
Quá trình mở rộng này đã bắt đầu với “cái nôi” trên khu vực xung
quanh sông Vị và hạ Hoàng Hà ở phần phía bắc của vùng đất có thể
canh tác, ngay sát phía nam Mãn Châu và Nội Mông, và đã phát
triển thịnh vượng trong thời nhà Tây Chu, 3.000 năm trước. Do vùng
Nội Á thảo nguyên chăn thả không có nông nghiệp cây trồng, dân cư
thưa thớt, với mật độ chỉ bằng khoảng 1/16 của khu vực “cái nôi”, nó
không thể sống được nếu không có sự giúp đỡ của vùng này.” Như
vậy Trung Quốc đã mở rộng ra xung quanh từ các triền sông Vị và
hạ lưu Hoàng Hà, mặc dù những khai quật khảo cổ gần đây lại chỉ
ra sự phát triển của nền văn minh ở đông nam Trung Quốc và bắc
Việt Nam cùng trong thời gian này. Trong thời Chiến quốc (481-221
TCN), số lượng các cộng đồng có tổ chức đã rút lại từ 170 xuống
còn 7, nền văn minh Trung Quốc đã mở rộng về phía nam, trong
những vùng thích hợp cho canh tác lúa và chè, cho đến tận khu vực
Thượng Hải ngày nay. Tuy vậy, quyền lực chính trị vẫn ở phía bắc,
trong khu vực bao gồm cả Bắc Kinh ngày nay. Nhà Tần đã nổi lên
sau chiến thắng thời Chiến quốc, và theo một vài suy diễn từ nguyên