Năm 1449, quân đội nhà Minh Trung Quốc, vừa đánh vừa rút lui
sau một chiến dịch thất bại ở Mông Cổ, và đã bị người Mông Cổ bao
vây. Sau khi cạn nguồn nước, người Trung Quốc đã bị rơi vào
hoảng loạn và quyết định phó mặc cho kẻ thù khu xử: “Họ đã cởi bỏ
áo giáp rồi chạy về phía phòng tuyến địch,” Grygiel viết. 500 ngàn
người trong số họ đã bị thảm sát, hoàng đế nhà Minh bị bắt làm tù
binh. Cuộc đột nhập đầy thảm họa này vào Mông Cổ đã đánh dấu
điểm khởi đầu sự suy vi kéo dài của triều đại nhà Minh. Sau đó,
người Trung Quốc đã từ bỏ mọi nỗ lực mở rộng vào thảo nguyên
phương Bắc, và điều đó càng làm cho tình thế trầm trọng thêm, bởi
vì mối đe dọa Mông Cổ vẫn đè nặng, thường trực và tiếp tục làm
suy mòn sức mạnh của đế chế. Tình trạng ấy đã góp phần làm suy
yếu sức mạnh trên biển của Trung Quốc, tạo thuận lợi cho việc thiết
đặt chỗ đứng của các quốc gia châu Âu tại những tỉnh duyên hải của
Rimland thuộc châu Á.
Chiến tranh Iraq, vào thời điểm này, không có vẻ gì là đã dẫn
đến một thảm họa với tầm cỡ tương tự. Vị thế quân sự và kinh tế
của Hoa Kỳ trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Đông Á, dường như
không phải chịu tổn thất từ sự trì trệ ở Iraq. Mặc dù binh sĩ Mỹ đã có
5.000 người chết và 32.000 người bị thương, nhưng con số đó
không là gì so với nửa triệu binh sĩ của hoàng đế nhà Minh bị quân
Mông Cổ tàn sát, tức là ngang với toàn bộ quân số của quân đội
Hoa Kỳ. Tình hình Iraq từ nay sẽ chỉ có thể tốt thêm, và những
người lính của Hoa Kỳ sẽ trở về từ Iraq đã trở nên dạn dày hơn, bởi
vì kinh nghiệm có được từ chiến tranh không chính quy tốt hơn
nhiều so với bất kỳ sự luyện tập nào. Điều tương tự cũng có thể nói
về lực lượng Lính thủy Đánh bộ Hoa Kỳ.