nước có thu nhập cao đều nằm ở các vĩ độ trung bình và cao. Chú ý
là lục địa Á-Âu trong dải ôn đới định hướng theo chiều đông-tây
sung túc hơn hẳn so với châu Phi cận Sahara định hướng theo
chiều bắc-nam, bởi vì việc phổ biến công nghệ diễn ra tốt hơn nhiều
trên cùng vĩ độ, nơi điều kiện khí hậu tương tự nhau, do đó cho
phép lan truyền nhanh chóng những đổi mới trong việc chăm sóc
cây trồng, thuần dưỡng động vật. Không phải ngẫu nhiên mà các
khu vực nghèo nhất thế giới có xu hướng hiện diện tại những nơi
mà điều kiện địa lý nhờ tính thích hợp của thổ nhưỡng có thể chấp
nhận được mật độ dân số cao, chứ không phải là vào sự tăng
trưởng kinh tế nhờ khoảng cách thuận lợi tới các hải cảng và các
đầu mối đường sắt. Vùng trung tâm Ấn Độ và vùng nội địa châu Phi
là những ví dụ tuyệt vời thể hiện điều này.
Trong một bản tổng kết gây ấn tượng nhất về Quyết định luận
địa lý, nhà Địa lý học cận đại Paul Wheatley đã đưa ra nhận xét rằng
“ở độ cao lớn hơn 500 m, người ta không còn nghe thấy ai nói bằng
tiếng Phạn nữa”, nghĩa là văn hóa Ấn Độ từng là một hiện tượng
đặc sắc chỉ gắn liền với các miền đồng bằng. Những ví dụ khác về
ảnh hưởng của địa lý đối với số phận các dân tộc theo cách vừa tinh
tế vừa rõ ràng cũng nhiều vô kể, và tôi sẽ còn nhắc tới chúng nhiều
hơn nữa trong công trình này.
Nhưng trước khi tiếp tục, cho phép tôi nói đôi chút về trường hợp
Hoa Kỳ. Bởi vì chính điều kiện địa lý đã giúp cho Hoa Kỳ duy trì
được sự thịnh vượng của mình, và điều kiện địa lý ấy có lẽ suy cho
cùng đã tạo ra chủ nghĩa vị tha mang tính toàn nhân loại của nước
Mỹ. Như John Adams đã lưu ý, “Không tồn tại một mệnh trời đặc
biệt riêng cho người Mỹ, và bản chất của họ cũng giống như của
những người khác.”