Nhà sử học John Keegan giải thích rằng nước Mỹ và nước Anh
đã có thể bênh vực cho tự do chỉ vì họ được những đường biên giới
biển bảo vệ khỏi “những kẻ thù của tự do từ phía đất liền.” Chủ
nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa thực dụng của lục địa châu Âu suốt
nửa đầu thế kỷ XX, một châu Âu mà người Mỹ luôn cảm thấy mình
vượt trội hơn, là kết quả của một hoàn cảnh địa lý, chứ không phải
là vì tính cách bẩm sinh. Các quốc gia và các đế chế cạnh tranh
nằm liền kề nhau ở một châu lục quá đông người. Các quốc gia
châu Âu không bao giờ có thể rút lui qua một đại dương trong
trường hợp xảy ra một tính toán sai lầm về quân sự. Do vậy, chính
sách đối ngoại của họ sẽ mãi không thể dựa trên một nền luân lý
phổ quát, mà họ vẫn sẽ tự vũ trang ở mức cao để chống lại nhau
cho đến khi cùng chịu sự thống trị của thế lực bá quyền Hoa Kỳ sau
Thế chiến II. Không phải chỉ có hai đại dương là thứ đã cho người
Mỹ sự sang trọng của chủ nghĩa Lý tưởng của họ, mà còn vì chính
hai đại dương này đã cho nước Mỹ con đường đến trực tiếp với hai
tuyến huyết mạch chính của nền chính trị và thương mại thế giới:
châu Âu qua Đại Tây Dương và Đông Á qua Thái Bình Dương, cùng
với những nguồn tài nguyên giàu có của đại lục châu Mỹ nằm giữa
chúng. Và thêm nữa, cũng chính những đại dương này, bằng việc
tách biệt châu Mỹ với những châu lục khác tới hàng ngàn dặm, đã
tạo cho nước Mỹ một khuynh hướng tai hại của chủ nghĩa biệt lập
tồn tại dai dẳng cho đến ngày nay. Thật vậy, ngoại trừ vòng ảnh
hưởng riêng của mình tại hai đại lục châu Mỹ, Hoa Kỳ đã không
ngừng chống lại những thế lực chính trị lớn trong gần 200 năm:
ngay cả sự sụp đổ của hệ thống nhà nước châu Âu trong năm 1940
cũng đã không lôi cuốn được Mỹ vào Thế chiến II. Phải đến khi xảy
ra trận tấn công vào Trân Châu Cảng năm 1941 điều đó mới xảy ra.