3. Bởi vậy, chúng ta không thể tiên đoán tiến trình tương lai của lịch sử
nhân loại.
4. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải loại bỏ khả năng có một môn sử học lý
thuyết, tức là một khoa học về lịch sử xã hội tương đương môn vật lý lý
thuyết. Không thể có một lý thuyết nào về sự phát triển lịch sử được lấy làm
cơ sở cho tiên đoán lịch sử.
5. Mục đích cơ bản của những phương pháp sử luận (xem các mục từ 11
đến 16 của sách này) do đó đã bị hiểu sai; và thuyết sử luận như vậy là sụp
đổ.
Luận cứ trên tất nhiên không nhằm bác bỏ tất cả những khả năng tiên đoán
xã hội; ngược lại, nó hoàn toàn tương thích với khả năng trắc nghiệm các lý
thuyết xã hội - chẳng hạn các lý thuyết về kinh tế - bằng việc tiên đoán rằng
một vài quá trình phát triển nhất định nào đó sẽ diễn ra trong những điều
kiện nhất định. Nó chỉ nhằm bác bỏ khả năng tiên đoán các quá trình phát
triển lịch sử dựa trên quan điểm coi chúng như những quá trình bị tác động
bởi sự phát triển đi lên về tri thức của chúng ta.
Bước quyết định trong luận cứ này là phát biểu ghi nhận (2). Tôi cho rằng
bản thân nó đã mang tính thuyết phục: nếu có cái gọi là sự phát triển đi lên
của tri thức ấy, thì thậm chí ở ngày hôm nay chúng ta cũng chẳng thể dự
đoán được ngày mai chúng ta sẽ biết được điều gì. Tôi cho rằng nói như
vậy nghe có vẻ hợp lý nhưng không thể là một phép chứng minh logic cho
lời phát biểu. Những bước chứng minh cho (2) mà tôi đã trình bày trong
những ấn phẩm vừa được nhắc đến rất phức tạp; và tôi cũng không ngạc
nhiên nếu thấy có được những phép chứng minh đơn giản hơn. Tôi chứng
minh bằng cách chỉ ra rằng không có một nhà tiên tri khoa học nào - dù đó
là một nhà khoa học bằng xương bằng thịt hay một cỗ máy tính - có khả
năng, bằng những phương pháp khoa học, tiên đoán được những kết quả
trong tương lai của chính mình. Những nỗ lực thực hiện điều đó chỉ có thể
đạt được kết quả sau khi việc đã rồi, lúc đã quá muộn cho một lời tiên đoán;
kết quả chỉ có thể có sau khi lời tiên đoán đã biến thành lời hồi đoán.