ta đang bàn ở đây. Do đó tôi xin được trở lại vấn đề và vạch rõ sự khác biệt
giữa quan điểm của Mill và quan điểm của tôi.
Tôi nghĩ rằng đưa ra một lời giải thích theo lối nhân quả cho một sự kiện
đặc thù nào đó có nghĩa là phải xuất phát từ hai loại tiền đề để suy diễn một
phát biểu ghi nhận mô tả được sự kiện đó; tức là xuất phát từ một số định
luật phổ quát và xuất phát từ một số ghi nhận đặc thù hay đơn lẻ mà ta có
thể gọi chúng là những điều kiện riêng ban đầu. Chẳng hạn, ta có thể nói
rằng ta đã đưa ra được một lời kiến giải mang tính nhân quả cho việc một
sợi dây bị đứt nếu ta phát hiện thấy rằng sợi dây chỉ có thể treo được vật
nặng 1 kg mà người ta lại treo vật nặng 2 kg lên đó. Nếu đem phân tích lời
giải thích nhân quả này, ta thấy có hai thành phần tham gia vào đây:
(1) Một số giả thuyết mang đặc tính của những định luật phổ quát; trong
trường hợp này đó có lẽ là: “Bất cứ sợi dây nào có cấu trúc c (được xác
định thông qua vật liệu làm nên nó, độ dày của nó,.v..v.) đều tương ứng với
một trọng lượng t đặc trưng, sao cho sợi dây phải đứt nếu ta treo lên đó một
vật có trọng lượng vượt quá t”, và “Với bất cứ sợi dây nào có cấu trúc c, thì
trọng lượng đặc trưng t là 1 kg”.
(2) Một số phát biểu ghi nhận riêng (đơn lẻ) - những điều kiện ban đầu -
gắn với sự kiện đặc thù riêng đang được nói tới; trong trường hợp này coi
như có hai phát biểu ghi nhận: “Đây là một sợi dây có cấu trúc c”, và “Vật
được treo lên sợi dây này có trọng lượng là 2 kg”.
Như thế, ta có hai bộ phận cấu thành khác nhau, hai loại phát biểu ghi nhận
khác nhau, gộp lại tạo thành một lời kiến giải mang tính nhân quả: (1)
Những phát biểu ghi nhận phổ quát mang đặc tính những định luật; và (2)
những phát biểu ghi nhận riêng liên quan đến trường hợp cụ thể, được gọi
là những “điều kiện ban đầu”. Vậy là từ những định luật phổ quát (1) ta có
thể suy ra, với sự trợ giúp của những điều kiện ban đầu (2), phát biểu ghi
nhận riêng (3) như sau: “Sợi dây này sẽ đứt”. Ta còn có thể gọi kết luận (3)
này là một dự đoán riêng.