Để đảm bảo bí mật cho việc vận chuyển quân sự bằng đường sắt với số
lượng lớn, Cục vận tải quân sự đã tiến hành những biện pháp như sau: số
lượng người được phép thực hiện việc vận chuyển quân sự tập trung, cũng
như làm những tài liệu có liên quan đến việc đó thì bị hết sức hạn chế; các
ga xuống xe lửa và bảo dưỡng đoàn xe đều được đánh số; việc thông báo về
tình hình đi lại của các đoàn xe lửa do các sĩ quan của Cục vận tải quân sự
kiểm tra chặt chẽ, còn những cuộc nói chuyện bằng điện thoại về vấn đề
này thì bị cấm; ở những đoạn đường gần biên giới Viễn Đông, các đoàn xe
lửa quân sự riêng biệt được phép đi vào lúc trời tối, còn ở con đường sắt
Pri-mô-ri-ê nằm sát biên giới thì cả việc bốc dỡ các đoàn xe lửa cũng được
tiến hành vào ban đêm; một số đoàn xe lửa không đỗ lại ở các ga đầu mồi,
việc bảo dưỡng kỹ thuật các đoàn xe lửa đó được tiến hành ở những ga
trung gian.
Nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho việc tập trung và triển khai bộ đội đã
được giao cho các khu vực phòng thủ vững chắc sát biên giới và một bộ
phận lực lượng bộ đội dã chiến đưa lên sát biên giới ở những tuyến phòng
ngự đã được chuẩn bị từ trước.
Để có lực lượng phòng không yểm trợ nhưng khu vực sát biên giới và
khu vực hậu cần, theo quyết định của Hội đồng quốc phòng Nhà nước ngày
14 tháng Ba năm 1945, ba tập đoàn quân phòng không - Da-bai-can, vùng
ven sông A-mua và Pri-mô-ri-ê - đã được triển khai. Ngoài ra, còn phối
thuộc cho mỗi tập đoàn quân phòng không Da-bai-can và Pri-mô-ri-ê một
sư đoàn máy bay tiêm kích. Các tập đoàn quân phòng không là phương tiện
của bộ tư lệnh phương diện quân .
Tổng cộng, tới tháng Tám năm 1945, Bộ Tổng tư lệnh bộ đội Liên Xô ở
Viễn Đông đã triển khai 11 tập đoàn quân bộ đội hợp thành, hai cụm quân
tác chiến, một tập đoàn quân xe tăng, ba tập đoàn quân không quân, ba tập
đoàn quân phòng không, bốn quân đoàn không quân độc lập. Ngoài ra, Bộ
Tổng tư lệnh còn có lực lượng của Hạm đội Thái Bình Dương (bao gồm