gươm giáo mà không dúng, ai ở yên nhà người ấy, đủ ăn đủ mặc. Chắc ông
nghĩ đến thời Nghiêu, Thuấn, thời bộ lạc. Đại văn minh mà giống dã man là
thế.
Vậy thuyết vô vi của ông khác thuyết vi kỉ của Dương Tử, ông lại khác
Dương ở chỗ không “quí sinh” mà coi đời sống chỉ là một sự tự nhiên: cứ
bình tĩnh, vô ưu, vô dục, vô cầu. Phản phục, hư tĩnh, vô vi, khiêm nhu, bất
tranh là những điểm chính trong học thuyết của ông.
Ông lật ngược cả nền luân lí của Khổng Tử, cả chế độ tôn ti của phong
kiến. Nhiều tư tưởng ngược đời được trình bày rất tài tình khiến ta thấy thú
vị, mà phải nhận rằng có phần nào đúng; và khi tới một tuổi nào đó, nhất là
ở trong thời loạn, ta chán nản mọi sự, không muốn hoạt động nữa, “làm bạn
với hươu nai”, hưởng “gió mát trên sông và trăng sáng trong núi”, thì ta
thấy đạo Lão thật thâm thúy, minh triết. Đạo Khổng hữu vi quá, tích cực
quá, bắt ta phải tự cường bất tức[3], lúc đó không hợp với tâm trạng ta nữa
và ta tìm về đạo Lão, như Đào Tiềm, Tô Đông Pha ở Trung Quốc, như Chu
Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nước ta. Hai đạo đó bổ túc lẫn nhau, như
mặt trăng và mặt trời, đều được dân tộc Trung Hoa coi trọng ngang nhau,
nên họ mới có được sự quân bình trong tâm hồn, khác hẳn người Ấn Độ và
người phương Tây.
Trang Tử
Trang Chu cũng sinh ở Tống, sau Lão khoảng 70 năm, sống ở Sở đồng thời
với Mạnh Tử, mới là cực vô vi. Bộ Trang Tử, cũng gọi là Nam Hoa Kinh,
gồm ba phần: Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên. Chỉ Nội thiên là chắc
chắn của ông viết, Ngoại thiên của môn sinh ông viết, tư tưởng hợp với
ông, còn Tạp thiên thì không tin được.
Trang Tử[4] cho rằng vũ trụ luôn luôn biến hóa. Vạn vật lúc đầu cùng một
loại, từ cái “cơ” sau lần lần biến đổi để thích hợp với hoàn cảnh, do đó mới
khác nhau. Sự biến đổi đó không ngừng, dường như thình lình và mau, từ
loại “kê” tới loại rêu, loại “chân quạ” (cây), loại sâu bướm, ve sầu, chim...,
ngựa, người, cuối cùng lại trở về cái “cơ”. Thuyết đó mới mẻ, tạm như
thuyết của Darwin.