+ Nhất là Thương Ưởng người nước Vệ (cho nên còn có tên là Vệ Ưởng,
cũng ở thế kỉ thứ IV), chủ trương dùng pháp cho nghiêm, mà cuối chương
IV tôi đã giới thiệu.
Họ chỉ có những điểm này giống nhau:
- hầu hết là ở trong những công tộc đã mất đất, mất quyền, có học, có kinh
nghiệm về chính trị và thường làm quân sư hoặc tướng quốc các nước chư
hầu (trừ Thận Đáo).
- có tinh thần thực tế, hiểu bản tính người là hiếu lợi, sợ đau đớn. Muốn cho
xã hội khỏi loạn thì phải đánh vào hai nhược điểm đó của dân, thưởng phạt
cho nghiêm minh: thưởng bằng tiền, bằng danh phận, chức tước; trừng trị
bằng những khổ hình nằng. Đừng giảng đạo đức với họ; giảng đạo đức mà
mong họ trung thành, tận trung với mình là mơ mộng hão.
- do đó, không cần lựa người hiền để trị dân, như Khổng, Mặc chủ trương.
Quan lại chỉ cần có khả năng trung bình, biết sợ vua và tuân lệnh thôi, có
thể thay thế lúc nào cũng được. Cũng phải áp dụng chính sách thưởng phạt
đối với họ.
- việc gì cũng chỉ có vua mới được quyết định; vua phải nắm hết quyền
hành, nếu chia một chút quyền với kẻ dưới thì bọn này sẽ lộng hành, che
mắt vua, gây bè gây đảng mà ngôi vua sẽ lung lay.
- vua phải kiểm soát hành vi của họ, dò xét tâm lí họ và đừng cho đoán
được ý muốn, sở thích của mình. Vua không cần quan lại thương yêu mình,
chỉ cần họ thừa hành đúng lệnh của mình mà không được phê phán; dù lệnh
đó, họ thấy hại cho quốc gia, cho bản thân họ, thì cũng phải tuân triệt để.
Tóm lại, pháp gia là chính trị gia, không phải là triết gia. Người có tài nhất
là Hàn công tử nước Hàn, môn đồ của Tuân Tử, học rất rộng, tập đại thành
tư tưởng của các pháp gia trước ông mà viết một bộ sách, bộ Hàn Phi Tứ.
Tần Thủy Hoàng đọc bộ đó, ngưỡng mộ ông lắm, ước ao được gặp ông, thì
may mắn cơ hội tới: Vua Hàn sai Hàn Phi đi sứ qua Tần. Có lẽ Hàn Phi
thấy cái thế của Trung Quốc thời đó sắp thống nhất được, mà chỉ có thể
thống nhất được bằng võ lực nên ở lại Tần để giúp Thủy Hoàng thực hiện
việc đó.
Ông theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, bảo không gì