nên ảnh hưởng đến con người cũng khác.
Miền bắc (các nước Tần, Tấn, Tề, Vệ, Lỗ, Tống...) khí hậu lạnh lẽo, đất cát
khô khan, cây cỏ thưa thớt, phong cảnh tiêu điều, sản vật hiếm hoi. “Mưa
rất ít, trời quanh năm xanh biếc, không một đám mây, đất thì mênh mông
một màu cát vàng (hoàng thổ, tiếng Pháp gọi là loess, phù sa của sông
Hoàng Hà), ít có cây cao che tầm con mắt (Vương Chi Hoán), chỉ toàn một
loài có, khi gió ào ào thổi, cỏ rạp xuống, ta thấy lô nhô những bầy bò và dê,
dân trồng lúa mì, kê và mục súc.
Miền Nam (như các nước Sở, Ngô, Việt...) “khí hậu ấm áp, cây cỏ xanh
tươi, phong cảnh tốt đẹp, sản vật phong phú. Núi lởm chởm, hết ngọn này
đến ngọn khác, mây trắng phủ quanh năm; sông rạch quanh co uốn khúc,
như bồi hồi luyến tiếc cành xanh hoa thắm mà không nỡ rời (Tạ Linh Vận).
Mưa nhiều, đất cát phì nhiêu, trồng được lúa gạo mà năng suất gấp hai lúa
mì. Thường có nhiều cơn dông hãi hùng, nhưng khi trời tạnh thì cảnh thật
rực rỡ, trời nước một màu trong tươi.
Do địa thế và khí hậu mà dân phương bắc phải gắng sức kiếm ăn, cần, kiệm
, chịu cực khổ, kiên nhẫn, cương cường, trọng dùng sức, thiên về lý trí; còn
dân phương nam thì thích một cuộc đời an vui, nhàn tản, thiên về tình cảm,
ảo tưởng.
Ngay từ đầu thời Chiến Quốc, trong sách Trung Dung, ta đã thấy phân biệt
giữa tính tình người phương bắc và phương nam:
“Khoan nhu mà dạy tha thứ kẻ vô đạo, đó là cái cường của người nam,
quân tử theo đó. Nằm trên áo giáp, binh khí, chết mà không sợ, đó là cái
cường của người bắc, kẻ anh hùng theo đó.”
Người phương bắc chê người phương nam là khinh bạc, phóng đãng, không
chịu suy nghĩ, thiếu óc thực tế; người phương nam chê người phương bắc
là hung tợn, hay gây gổ, tụ họp, thích những tiểu xảo.
Nhưng Bắc Nam lần lần hoà hợp với nhau, cùng chịu ảnh hưởng sâu đậm
của đạo Khổng và đạo Lão, cùng một lối sống, một nền kinh tế, thành một
dân tộc mà những nét chính là siêng năng, kiên nhẫn, tự tin, ưa hoà bình, có
tinh thần gia đình, gia tộc rất cao.
Họ có tinh thần gia đình, gia tộc cao vì theo chế độ “tôn pháp” của nhà Chu