Nho); mà cũng như Tần Thủy Hoàng, rất mê Đạo giáo (tức một biến thái
của Lão giáo, không còn là một triết học cao siêu nữa mà thiên về dị đoan,
tìm phép trưởng sinh bất tử, (sẽ nói sau).
Ông vô tài mà lại độc tài, mới đầu thưởng công họ, như phong Hàn Tín làm
Sở Vương, Bành Việt làm Lương Vương, Anh Bố làm Hoài Nam Vương...
, sau nghi kị họ, chỉ sợ họ lật đổ mình, nên Tín, Việt, kế nhau đều bị tru di
tam tộc; Bố sợ họa đến mình, cử binh làm phản, thua rồi chết, chỉ có
Trương Lương lả sáng suốt như Phạm Lãi thời Xuân Thu, biết tránh trước
cái họa, công thành rồi thì bỏ hết danh lợi mà về ở ẩn[2].
Ông cầm quyền chỉ được bảy tám năm rồi chết, nên chỉ tạm tổ chức được
hành chánh, mà đại khái vẫn giữ chế độ của Tần, không thay đổi gì nhiều.
Ông thấy nhà Tần vì bỏ chế độ phong kiến mà thành cô lập, đến nỗi mất
nước, còn nhà Chu thì phong vương cho chư hầu nhiều quá, sau triều đình
nhà Chu không thống trị họ nổi, để họ uy hiếp, rồi khuynh đảo, nên ông
dung hòa hai chế độ, một mặt phong vương cho họ hàng và các công thần
cai trị các yếu địa (các đất đó gọi là quốc), còn lại thì chia làm quận (dưới
quận là huyện), trực thuộc trung ương. Chế độ kiêm dụng quốc và quận đó
gọi là chế độ “quận quốc”.
Cũng như Tần Thủy Hoàng, ông ghét thương mà khuyến khích nông; giảm
nhẹ thuế má, ai khẩn hoang được đất mới thì mấy năm đầu miễn thuế, cho
quân lính được giải ngũ, về nhà làm ruộng.
Việc bổ dụng các quan, tự ông quyết định, và ông tin dùng bọn điền chủ
phú nông; họ hơi có học, có tài sản, được dân trong miền kính nể, họ lại thu
thuế giỏi, mà nhiệm vụ quan trọng nhất của các quan quận, huyện thời đó là
thu thuế. Lần lần bọn đó thành một giai cấp vừa giàu vừa có chức, sau này
khi nho học được trọng dụng, mới thêm bọn nho sĩ.
Về việc đối ngoại, đặc biệt với Hung Nô, chúng tôi sẽ xét sau.
2. Huệ đế và Lữ hậu.
Huệ đế kế vị, bị Lữ thái hậu (vợ Cao Tổ) tranh quyền, ở ngôi chỉ được 7
năm (-194-188), chỉ mới hủy bỏ luật hiệp thư (năm -191), rồi thì chết vì
hoang dâm. Kế đó là một thời loạn trong gia đình họ Lưu, Lữ thái hậu phế