Với một đạo quân 5 vạn người, năm 309 ông tấn công Lạc Dương, kinh đô
Tấn. Năm sau ông chết. Người kế nghiệp, Lưu Thông, chiếm được Lại
Dương năm 311. Vua Tấn, Hoài đế bị bắt. Trong khi đó các vương vẫn
tranh giành nhau, không ai lo cứu Hoài đế. Mân đế lên nối ngôi, dời đô lại
Tràng An, cũng không được một vương nào giúp. Hung Nô lại tấn công
nữa, Mân đế phải đầu hàng. Từ đây chấm dứt nhà Tây Tấn (316). Các
vương, tướng, triều thần, quí tộc Tấn, nước mất, nhà tan, phải trốn xuống
phương Nam. Một người chắt của Tư Mã Ý lập đô ở Kiến Nghiệp, mở đầu
cho nhà Đông Tấn. Cả phương Bắc bị Ngũ Hồ chiếm. Khi vua Hung Nô
chiếm được Tấn rồi, không dùng quốc hiệu là Hán nữa mà đổi là Triệu
(Tiền Triệu).
Vậy là Trung Hoa mới thống nhất non 40 năm đã chia hai: Nam và Bắc. Từ
đây bắt đầu thời đại Nam Bắc triều, kéo dài trên hai thế kỉ rưỡi.
C. NAM BẮC TRIỀU (317-580)
1. Tổng quan
Có mọt sự trùng hợp kì dị mà tôi chưa thấy một sử gia nảo giảng tại sao, là
ở phương Tây, đế quốc La Mã và ở phương Đông, đế quốc Hán cùng thịnh
vào một thời rồi cùng suy vào một thời - trong các thế kỉ thứ III tới thứ VI
và cùng tan rã do sự xâm lăng của các “rợ” du mục; xã hội của La Mã và
Hán đều phải thay đổi mà văn hóa phải thụt lùi. Trung tâm văn hóa trước
mấy thế kỉ đó, nằm ở hai đầu Tây, Đông thì bây giờ chuyển lại về miền bờ
Ấn Độ dương: Ấn Độ, Ba Tư.
Thời Nam Bắc triều là thời loạn nhất trong lịch sử Trung Quốc, dài bằng
thời Chiến Quốc mà rối ren hơn nhiều, đau xót cho dân tộc Trung Hoa hơn
nhiều. Cả miền Bắc bị rợ Ngũ Hồ chiếm đóng, dân Hán phải sống dưới
móng ngựa của họ. Khi họ mới xâm nhập thì họ chỉ nghĩ tới sự cướp bóc
tài sản; rồi khi giai cấp lãnh đạo của Trung Hoa trốn xuống Nam hết, họ
làm chủ được đất đai một cách lâu dài thì đại đa số các bộ lạc chỉ muốn
sống cuộc đời du mục, phi ngựa trong đồng cỏ, ghét đời sống nông nghiệp,
cho nên bắt dân Hán cung cấp lúa và thực phẩm cho họ, còn chính họ thì