đóng; có tình, có cảnh, lại có nhạc du dương, ngâm được, phổ nhạc được.
Thật là một viên ngọc nếu thi sĩ có tài cao.
Nhưng có sở trường thì có sở đoản: Niêm luật, qui tắc khắt khe quá, bó
buộc thi nhân quá làm cho người, ta cạn hứng, nên ngay khi thơ luật mới
xuất hiện đã có người - thi sĩ Hàn Sơn - chê nó là một lối ghép chữ để tiêu
sầu khiển muộn.
Cũng may là suốt đời Đường, những thi sĩ nổi danh hiểu lẽ đó, nên không
chịu nô lệ luật, biết phá luật để theo hứng, như bài Hoàng Hạc lâu của Thôi
Hiệu, Anh Vũ châu của Lí Bạch, Cửu nhật đăng cao của Đỗ Phủ...
Và khi nào họ thấy thể luật không diễn được hết cảm nghĩ của họ thì họ
dùng thể cũ gọi là cổ phong (chỉ cần có vần, dài bao nhiêu cũng được và
không phải theo niêm luật); hoặc thể từ (sẽ nói ở sau). Nhờ vậy mà thơ
Đường vừa hay vừa phong phú.
Thơ Đường chia làm ba thời kì:
Sơ Đường (618-712). Mới đầu còn giữ cái phong khí diễm lệ đời Lục
Triều, như Vương Bột, Lạc Tân Vương trong nhóm Tứ kiệt; rồi Thẩm
Thuyên Kì, Tống Chi Vấn có công làm cho thơ luật hoàn thành; Hạ Tri
Chương, Trương Nhược Hư tiếp tục. Cuối thời, Trần Tử Ngang và Trương
Cửu Linh vận động phục cổ, thơ bình dị, tự nhiên.
Thịnh Đường (713-824) là hoàng kim thời đại của thơ, có người (Hồ Vân
Dực) bảo từ Sơ Đường tới Thịnh Đường, thơ phát triển như từ đất bằng vọt
lên ngọn núi Hi Mã Lạp Sơn.
Về lượng, theo Toàn Đường thơ, thơ thịnh Đường chiếm tới 3/4; trên 1.500
thi sĩ và non 4 vạn bài thơ, riêng Đỗ Phủ có tới ngàn bài.
Về phẩm, thì thật là đủ vẻ đẹp, đủ cảnh, trọng thiên nhiên, trọng xã hội, đủ
các tình cảm của con người trong một xã hội thịnh cực rồi lại suy cực đời
Minh Hoàng. Được vậy một phần là nhờ chưa thời nào thi nhân được từ
vua chúa tới dân chúng trọng vọng như thời đó.
Khuynh hướng nào cũng có, nhưng đại cương mà xét thì có bốn phái: Phái
xã hội, phái biên tái, phái tự nhiên, phái quái đản.
Tôi không biết nên đặt Lí Bạch (701-762) vào phái nào trong ba phái đầu vì
thơ ông có đủ loại, mà rất tự nhiên.