923 đến 951, non 30 năm, dân tộc Trung Hoa miền Bắc chịu cái ách của rợ
Sa Đà, nay mới cởi ra được. trong thời gian đó chiến tranh liên miên, mà Sa
Đà lại không quan tâm tới việc nuôi dân, chỉ bốc lột bằng thuế khóa mỗi
ngày một nặng, nền kinh tế suy sụp hoàn toàn, tới cái mức triều đình phải (
dùng thịt người làm lương thực cho quân lính ) ( theo Lữ Chấn Vũ , sách đã
dẫn ). Cùng khổ quá , quân lính muốn phản loạn, qua phía địch thì triều
đình lấy tiền trong kho để phát cho chúng mà giữ chúng lại. Nhiều lần như
vậy ( theo Eberbard, sách đã dẫn).
Triều đình Hậu Chu gồm toàn giới sĩ tộc Trung Hoa ( số quý tộc Sa Đà ít
quá, không đáng kể, vả lại đã Hán hoá gần hết rồi) sửa đổi chính sách để
chấn hưng lại kinh tế. Một mặt mở rộng đất đai, một mặt qui định lại thuế
khóa cho tương đối công bằng, bằng cách thủ tiêu đặc quyền miễn thuế,
một mặt nữa (đời Thế Tông) (1) bắt đóng cửa trên ba vạn ngôi chùa, bắt
tăng ni phải hoàn tục, lập số hộ khẩu, kiểm tra được trên 2 triệu 300 ngàn
hộ phải đóng thuế ( khoảng 11 triệu rưỡi dân) lại bỏ lệ cấm dân trữ đồng,
cho dân được phép làm muối, trừ bọn tham qua ô lại, nhưng chưa kịp thi
hành thì nước Bắc Hán, một trong Thập quốc ( coi bảng 10 nước ở trước )
do Lưu Sùng, gốc Sa Đà ( em Lưu Trí Viễn đời Hậu Hán) lập lên ở Sơn
Tây, nhờ Khiết Đan giúp sức, đem quân đánh Hậu Chu ; vua Hậu Chu sai
một tiết độ sứ là Triệu Khuông Dẫn đi dẹp. Vua Hậu Chu chết, con mới bảy
tuổi lên nối ngôi. Quân lính tôn Triệu Khuông Dẫn làm vua, rước ông trở
về Đại Lương ép vua bảy tuổi nhường ngôi cho. Hậu Chu Chấm dứt, được
ba đời, cộng 10 năm. Thời Ngũ Đại cũng chấm dứt với nhà hậu Chu.
Trong khoảng nửa thế kỷ đó, miền Bắc có một sự thay đổi khá quan trọng :
phía Tây Bắc tức miền kinh đô Tràng An thời trước, di chiến tranh ở chung
quanh mà bị tàn phá tới nỗi suốt một thế kỷ sau không dùng làm kinh đô
được nữa, dân chúng đã di tản đi nơi khác gần hết. Dưới sự chiếm đóng của
Khiết Đan, luồng kinh tế chuyển hướng về phía Bắc Kinh chứ không về lưu
vực sông Hoàng Hà nữa, và Bắc Kinh sau thành kinh đô của Khiết đan
3. Thập Quốc ở Nam
Thực ra chỉ có 9 nước ở Nam thôi, đều thuộc về người Hán, còn mợt nước
của người Sà Đà, thành lập sau cùng , ở Sơn Tây, miền Bắc như trên đã nói.