Hình số 2, bên trái cũng là sườn núi, bên phải trên có nóc nhà, dưới có đám
mây, do đó trỏ phía mặt trời bị che khuất, không có ánh nắng, phía tối; sau
giản dị hoá thành chữ âm (
陰).
Vậy là từ đời Thương, người Trung Hoa đã có quan niệm âm, dương, và
cuối đời đó, họ dùng quan niệm âm dương để tạo nên bát quái, cách bói,
Kinh Dịch. Họ đã dùng thập can (giáp, ất, bính đinh...) và thập nhị chi (tý,
sửu, dần; mão...) để chỉ ngày tháng (coi quẻ bói ở trên), và chắc chắn họ đã
có âm lịch.
Nông dân sống ở đồng ruộng,thợ thủ công sống ở thành thị. Công nghệ đã
khá phát triển. Đồ gốm có thứ tốt, đẹp gần như đồ sứ; đồ đồng đúc thành
hình loài vật, có bình hình con cừu, con voi, con tê giác, con chim; dĩ nhiên
họ cũng đúc khí giới bằng đông, có nghệ thuật khá cao.
Thành thị thời đó nhỏ thôi. Người ta đã khai quật được ở An Dương, thành
lớn nhất đời nhà Thương, tức kinh đo cuối cùng của đời đó, mà chu vi chỉ
có 800 mét. Cung điện của nhà vua hướng về phía Nam, gồm ba cái điện
(minh đường), điện nào cũng cất bằng gỗ, nóc có hai mái. Một điện ở giữa
là chỗ họp triều, phía Đông điện đó là nhà thái miếu, thờ tổ tiên nhà vua;
phía Tây là nơi thờ thần Xã Tắc.
Ở phía Bắc cung điện, dựng một cái chợ; phía Nam dành cho các triều thần,
và một số thợ thủ công chế tạo vũ khí, chiến xa,các đồ tự khí bằng đồng...
Đồ đồng thời đó đẹp nhất thế giới.
Chữ viết xuất hiện ở đời Thương trên các giáp cốt, đồ đồng. Ở chương 2,
tôi đã xét nguồn gốc của chữ Trung Hoa, lợi và hại của nó, nên ở đây
không nhắc lại.
*
Vua Trụ
Theo các sử gia thời xưa thì ông vua cuối cùng đời Thương, Đế Tân, hiệu
là Trụ cũng dũng mãnh, hoang dâm (mê nàng Đát Kỷ), cũng xa xỉ, đặt ra
thuế khoá nặng nề, bắt dân dựng lâu đài,xây hồ ao, cũng hiếu sát, đặt ra
những hình phạt thảm khốc, cũng không nghe lời căn ngăn của các gián
thần, y hệt vua Kiệt cuối đời Hạ, và sau cũng bị các nước chư hầu đem
quân vào đánh như vua Kiệt, chỉ khác Kiệt bị truất ngôi và đày còn Trụ thì