B.Chế độ phong kiến
Phong kiến có nghĩa là vua phong tước cho một bầy tôi (hoặc là một người
trong họ nhà vua, hoặc là một công thần...) và cho người đó một khu đất để
người đó kiến quốc (lập nước). Người đó thành một chư hầy của vua.
Ở trên tôi đã nói cuối đời Thương, chế độ đó đã manh nha rồi, nhưng phải
đợi đến đời Chu nó mới được Chu Công quy định, sửa đổi dần dần. Cũng
do hoàn cảnh bắt buộc.
Nhà Chu là một nước nhỏ, dân ít, phải nhờ nhiều bộ lạc giúp mới diệt được
nhà Thương, chiếm được nhiều đất đai quá, không sao cai trị hết được, nhất
là thời đó nhiều nơi chỉ có những đường mòn, không dùng chiến xa được;
vả lại chiến xa mới xuất hiện, rất ít; còn kỵ binh mãi tới đời Chiến Quốc
mới có.
Vậy muốn cai trị những miền ở xa, chỉ có cách lập rải rác những cái ** (
bản thảo mất hai chữ), và giao sự chỉ huy cho một người thân tín của nhà
vua, hoạc một người đã có công giúp Chu diệt Thương. Bộ lạc nào trước
làm tôi nhà Thương, nay chịu phục tùng cũng phong tước cho.
Vua Chu chỉ nắm quyền trung ương ở Thiêm Tây (gần Tây An ngày nay),
còn thì chia đất cho:
- Bà con, như phong con của ông Chu Công là Bá Cẩm ở Lỗ (Lỗ Công);
- Một số người hiền của nhà Thương, như phong cho Vi Tử (người đã can
vua Trụ mà Trụ không nghe) ở Tống;
- Công thần, như phong cho Lã Vọng ở Tề, cho hai vị đại thần khác, một ở
Yên, một ở Sở.
- Và trên một ngàn tù trưởng.
Theo nguyên tắc thì đất của vua (vương) tức thiên tử được ngàn dặm vuông
và có vạn cỗ chiến xa (vạn thặng)[2]; dưới vương có năm tước: công, hầu,
bá , tử, nam. Đất phong của hai bậc công và hầu được trăm dặm vuông, có
ngàn cỗ chiến xa (thiên thặng); bậc bá được bảy chục dặm vuông, có trăm
cỗ chiến xa; hai bậc tử, nam được năm chục dặm vuông, năm chục cỗ chiến
xa. Tất cả những nước nhỏ đó gọi chung là chư hầu; mỗi chư hầu sau lại
sáp nhập thêm một hay nhiều nước nhỏ, gọi là phụ dung, tức là chư hầu của