trọng chữ hiếu, nên họ chú trọng đến tang lễ, tế tự. Sự thờ phụng tổ tiên gần
thành một tôn giáo.
Chế độ tôn pháp rất quan trọng về chính trị: nó chấm dứt chế độ thị tộc mà
thay bằng chế độ gia tộc. Ngôi vua không còn do cả thị tộc lựa người tài
năng nhất nữa, mà do cha truyền cho con, không truyền hiền nữa mà truyền
tử. Chế độ đó theo truyền thuyết, có từ đời Hạ, nhưng đời Chu mới quy
định nó rõ ràng. Khi còn là một bộ lạc vài vạn người là cùng thì có thể
truyền hiền được; khi đã phát triển thành một nước có cả triệu người thì sự
truyền tử (quân chủ) là một giai đoạn cần thiết, trước khi nhân loại tiến bộ,
có đủ điều kiện để thành lập chế độ dan chủ, đại nghị.
Nhưng nó cũng có nhiều cái hại. Anh em, chú cháu tranh giành nhau, chém
giết nhau, không triều đại nào tránh khỏi, mà hoàng tộc là họ có nhiều kẻ bị
bất đắc kỳ tử nhất; lại thêm cũng vì ham ngôi báu mà vợ vua xen vào việc
nước, lấn hết quyền hành của người chồng nhu nhược, hiếu sắc, hoặc là của
con, nhất là khi nó còn nhỏ, nạn đó là nạn ngoại thích; nạn thứ ba là phải
dùng toàn hoạn quan ở trong cung, sợ mất huyết thống mà ngôi báu vào tay
một kẻ không cùng dòng máu với mình. Hai nạn ngoại thích và hoạn quan
đã xảy ra từ đời Chu (có thể từ đời Thương nữa) và càng về sau càng tệ: có
thời trong cung vua có tới ba ngàn hoạn quan, có ông vua sợ viên thái giám
như sợ cha; nếu mẹ vua mê một thầy chùa giả làm hoạn quan thì triều đại bị
hai cái tệ ngoại thích và hoạn quan một lúc, nhất định là phải sụp đổ trong
sự nhục nhã.
Từ đời Chu, có người đã cảnh cáo vua chúa về hai nạn đó, và triều đại nào
cũng có một hai ông vua tìm cách cấm ngặt bọn hoạn quan xen vào việc
nước, đặt ra những hình phạt rất nặng để trừng trị bọn họ, nhưng không
hiệu quả, vì như vậy chỉ là trị ngọn; gốc là chế độ quân chủ chuyện chế, chế
độ đa thê, chế độ tôn pháp. Ả Rập, Ba Tư, Ai Cập ... đều bị nạn đó cả;
phương Tây thì không có hoặc có mà rất ít, vì họ không có chế độ đa thê và
chế độ tôn pháp.
*
Tôn giáo