nay chỉ một chức vụ này, sách khác chỉ một chức vụ khác, ví dụ danh hiệu
trủng tế chỉ một chức quan coi về các việc riêng (chắc là ở trong cung) của
vua, theo Henri Maspéro (La Chine antique); mà trong Trung Quốc sử lược
của Phan Khoang, lại chỉ một chức coi việc hành chính trong nước.
Chúng ta chỉ cần biết đại khái rằng đời Chu, triều đình đã có bốn chức như
chức thượng thư đời sau: tư mã coi việc binh, tư khấu coi việc hình, tư đồ
coi về canh nông, tư không coi về dân sự, ruộng đất, đê điều, đường sá ...
(tức như bộ công thời sau)[6] - Vậy là chưa có hai bộ: bộ lại, bộ hộ, vì chưa
cần thiết, có thể giao cho những quan nhỏ.
Ngoài ra có một chức coi về việc riêng của vua (trủng tế?); một chức coi về
việc ăn uống của vua (thiện phu); một chức coi về kho lẫm (truyền phủ);
một chức dạy thái tử (sư phó?); dĩ nhiên có một quan coi các hoạn quan
nữa.
Ở triều đình có ba chức quan nhỏ: Chức coi về thiên sự, tế lễ, lịch; Thái bốc
coi về bói...; và Sử coi về nhân sự, chép lại việc các đế vương đời trước, để
lưu truyền những điều các tiên vương đã đặt ra. Những Kinh, Thi, Thư,Lễ,
Nhạc đều do sử quan làm ra. Điểm này rất đặc biệt: không dân tộc nào chép
sử kỹ như Trung Hoa.
Ngoài kinh đô, nước chia ra làm châu, rồi tới quận, lý (làng), giao cho đại
phu hoặc kẻ sĩ cai trị.
Điền chế
Đất nào cũng là của nhà vua. Vua ban đất cho họ hàng, bề tôi để họ khai
thác (đất đó gọi là đất phong); họ lại giao cho một người quản lý, gọi là tế.
Viên này tuy là quản gia nhưng rất có quyền, những nông dân trong đất
thuộc quyền của họ, phải nộp cho họ một phần mười hoa lợi.
Người ta thi hành phép tỉnh điền (xét ở sau), chia ruộng làm ba hạng: tốt,
trung bình, xấu; đất trung bình thì số ruộng được chia bằng hai số ruộng tốt;
đất xấu thì được bằng ba.
Tới đời Xuân Thu, một số nước như Tần cho mọi người được tự tiện khai
phá đất hoang, do đó phát sinh một hạng chủ điền, một giai cấp mới giàu