Ở Đài Loan, Tưởng Giới Thạch chết trước Mao (1975). Còn Tưởng Kinh
Quốc vẫn theo đường lối của cha.
(1) Quốc dân đảng và Cộng sản đảng đều thành công lớn nhưng
(2) không bền (Quốc từ 1911-1912; Cộng từ 1925-1926); tiếp theo là một
khoảng 10 năm long đong (Quốc từ 1913-1923; Cộng từ 1927-1937); rồi
lên cầm quyền, tràn trề hy vọng (Quốc: 1928, Cộng: 1949), nhưng chỉ được
mươi năm đầu rồi lại suy loạn. Cả hai đảng đều do giới trí thức thành lập,
tổ chức.
Nhân vật quan trọng trong Quốc dân đảng hầu hết là thị dân, gia đình
thương nhân ở Quảng Châu (môn đệ Tôn Văn), hoặc người ở Thượng Hải,
miền hạ du Dương Tử Giang du học ở ngoại quốc về (phe của Tưởng).
Những người theo Mao, trái lại cũng như Mao, đa số gốc nông dân ở Hồ
Nam, chỉ có một số ít đã xuất ngoại.
Quốc dân đảng suy từ khi rời lên Trùng Khánh (1939) nhờ đứng về phe
đồng minh mà vượng lên mấy năm, rồi không ngóc đầu lên được nữa vì
không biết lo cải thiện đời sống nông dân như Tôn Văn đã dặn. Cộng sản
đảng tuy đã thuộc lời Tôn Văn đấy, nhưng từ khoảng 1960 cũng thất bại
nặng vì muốn tiến mau quá, bắt dân phải hy sinh quá sức của họ. Hiện nay
(1983), Đặng Tiểu Bình có vẻ muốn làm theo đường lối kinh tế tự do của tư
bản. Chúng tôi chỉ biết vậy thôi chứ không dám tiên đoán gì cả. Từ nay đến
cuối thế kỷ còn nhiều biến chuyển.
Tưởng và Mao đều sống giản dị, có nhiều nghị lực, kiên nhẫn nhưng đều
ham quyền, tư cao tự đại, không nghe lời khuyến cáo của ai cả. Tưởng
nóng nảy, Mao bình tĩnh nhưng giả dối, thâm hiểm, hiếu sát. Cả hai đều có
bốn vợ, đều truyền ngôi lại cho con. Tưởng cho Tưởng Kinh Quốc (con vợ
trước), Mao cho Hoa Quốc Phong (con nuôi). Họ là những con người mới
mà không bỏ được truyền thống từ 2000-3000 năm trước.
Công của Tưởng là bắt đầu hiện đại hoá Trung Quốc, ít nhất là ở thành thị,
xoá bỏ được các hiệp ước bất bình đẳng, đưa Trung Quốc lên hàng ngũ
cường mặc dầu chỉ có danh chứ không có thực.
Công của Mao là xoá bỏ chế độ phong kiến (Tưởng cũng có một phần công
này), cứu dân khỏi bị chết đói – tuy vẫn còn đói - giải cho nông dân khỏi bị