dân đói.
Năm 1950, Tưởng Giới Thạch đem hai ba trăm ngàn quân qua với một số
đông dân di cư. Ông ráng lập lại trật tự, chấn chỉnh kinh tế, cải cách chế
độ.
Thế giới thừa nhận quốc gia Đài Loan của Tưởng, cho nó là hợp danh
nghĩa và hợp thực tế. Thành thử có hai Trung Hoa, Trung Hoa của Tưởng
và Trung Hoa của Mao. Tưởng vẫn ở trong Hội đồng an ninh Liên hiệp
Quốc, Mao không được vào. Điều đó làm cho Nga và phe của Mao ức lắm
mà không làm được gì.
Đầu năm 1950, Mỹ còn đang do dự không biết nên thừa nhận Trung Hoa
lục địa không; sau mới quyết định cứ ủng hộ Tưởng rồi sau sẽ hay, như vậy
rất có lợi cho Tưởng: rất nhiều Hoa Kiều ở hải ngoại sẽ còn hướng về
Tưởng được, Mao mất một miền kinh tế phát triển và nếu tình trạng kéo dài
lâu thì có thể mất luôn Đài Loan.
Tưởng mới qua Đài Loan được sáu tháng thì chiến tranh Triều Tiên nổ,
Tổng thống Mỹ Truman long trọng tuyên bố rằng nếu Cộng chiếm Đài
Loan thì Thái Bình Dương sẽ nổi sóng gió; ông ta lại viện trợ quân sự cho
Tưởng trở lại nhưng cũng ra lệnh cho Tưởng ngưng ngay mọi cuộc tấn
công Hoa Lục bằng không quân và hải quân. Hạm đội thứ VII của Mỹ được
đưa ngay đến vùng biển Đài Loan để canh phòng. Vậy là Đài Loan hoá ra
trung lập. Nhưng khi Eisenhower lên thay Truman thì chính sách của Mỹ
thay đổi, ra mặt che chở cho Đài Loan, mặc cho Đài Loan khiêu khích
Mao.
Do đó mà Tưởng và Mao tình hình căng thẳng. Mao thả bom xuống các
đảo Kim Môn và Mã Tổ của Tưởng ở gần bờ biển Hoa lục; Tưởng trả đũa,
đổ bộ một ít lên Hoa lục, phá quấy rồi rút lui vội vàng. Ai cũng biết Tưởng
không hy vọng gì chiếm được Trung Hoa, chỉ muốn nâng cao tinh thần của
quân đội, của nhân dân lên thôi. Nhiều lắm thì ông ta cũng chỉ mong khi
nào Hoa lục có nội chiến thì ông ta sẽ đem quân qua giúp phe chống Cộng.
Chuyện đó xa vời quá. Khi ông chế (1975) Mao vẫn nắm quyền ở Hoa lục.
Con ông, Tưởng Kinh Quốc lên nối ngôi, chính sách không có gì thay đổi.
Tưởng cho phép hai đảng đối lập hoạt động. Dĩ nhiên hai đảng đều có tính