có tới mấy vạn người. Có khi thêm một vòng thành nữa gọi là quách.
Chế độ cai trị thay đổi
Thời Xuân Thu, vua các nước chư hầu theo chế độ phong kiến của nhà
Chu, dùng bọn cha anh để đảm nhiệm triều chính, phong cho họ những
chức tước như tướng quốc, khanh, đại phu... rất ít khi dùng người ngoài
công tộc. Một số cha nha được chia cho một khu trong nước để cai trị, họ
như một ông vua nhỏ.
Tôi lấy ví dụ nước Lỗ thời Khổng Tử. Khi Khổng Tử làm Á tướng( trường
hợp đó hơi đặc biệt vì ông không phải là người trong công tộc, chỉ nhờ có
tài, đức mà được cất nhắc như vậy), Lỗ có ba "nhà" gọi là tam Hoàn: Quý
Hoàn Tử, Thúc Hoàn Tử và Mạnh Hoàn tử (đều là hậu duệ của Lỗ Hoàn
công). Họ lấn hết quyền của vua Lỗ (Chiêu công). Họ Quý mạnh nhất,
chiếm tới nửa nước, có thành phố ở phía đông; họ Thúc chiếm phía Tây, họ
Mạnh chiếm phía bắc, miền biên giới Tề-Lỗ. Họ thu thuế, nắm binh quyền,
có gia thần (bề tôi riêng), triều đình riêng, thành trì, quân đội riêng; ngênh
ngang, hống hách, sống xa xỉ hơn vua Lỗ. Nhất là họ Quý muốn tiếm lễ
thiên tử, tước chỉ là đại phu của một chư hầu mà dùng vĩ (điệu múa) Bát
Dật của thiên tử (Luận ngữ, III- 1); cả ba nhà đều cho hát thơ Ung khi dẹp
đồ tế lễ trong nhà họ, mà theo lễ chỉ thiên tử khi tế ở tôn miếu mới cho hát
thơ đó.
Khổng tử bất bình, muốn dẹp thành trì, triều đình của họ mà không được.
Một phần vì vậy mà ông không giúp Lỗ nữa, đi tìm một ông vua khác.
Như vậy là quyền của nhà vua bị phân tán, nếu vua nhu nhược, bất tài thì
chỉ còn hư vị, nước sẽ yếu.
Tới thời Chiến Quốc, thế kỷ V, IV TrCN, nhiều nước muốn mạnh lên, thay
đổi chính sách, dẹp các nhà có quyền hành lớn, đặt ra các quận, huyện ,
dùng những quan lại trực thuộc triều đình để cai trị mỗi quận huyện. Bọn
quan lại đó được trả lương bằng lúa, cuối mỗi năm phải báo về triều đình
công việc cai trị của mình, họ có thể bị cách chức nếu bất lực hoặc tham
nhũng.