để cho đảng xử trước đã; hoặc cảnh cáo, hoặc đổi đi nơi khác, cho hạ tầng
công tác...; tội nặng lắm đảng mới đưa ra tòa án xử (cả chục năm mới có
một trường hợp như vậy). Đảng viên gần ra bất khả xâm phạm; ngay cả đến
bác sĩ cũng không dám mổ mắt một đảng viên quan trọng, nếu không xin
phép đảng trước, sợ nếu mổ lỡ mà họ hóa đui thì mang tội nặng.
[8] đời Thương hoặc trước nữa, người ta dùng vỏ sò, chữ Hán là bối (
貝),
vì vậy mà các chữ nói về việc buôn bán thường có bộ bối
[9] Tục giao hợp ở giữa trời này thời cổ rất phổ biến; có nơi nó gần như
một nghi lễ để cầu cho ruộng nương được mùa
[10] Theo chú thích của Chu Hi thì thược dược là một loại cỏ thơm, không
phải hoa thược dược của ta ngày nay, có sắc mà không hương.
[11] Tục hát quan họ của ta ở Bắc Ninh có phải là một biến thể, một di tích
của tục đó không?
[12] Những điều tôi chép ở trên rút từ cuốn La Chine antique của Henri
Maspéro ra, mà Maspéro lại mượn của Marcel Granet trong Fêtes et
chansons anciennes de la Chine. Nó giúp chúng ta hiểu Kinh Thi hơn.
Trong bộ Sử Lý Tư Mã Thiên viết đại ý rằng ngày xưa Kinh Thi có 3000
thiên (do các viên sử nhà Chu sưu tập được), Khổng Tử san lại, chỉ lựa 305
thiên "hợp với lễ nghĩa" thôi. Đời sau, Khổng Dĩnh Đạt, Chu Hi ... nghi
ngờ thuyết đó vì Khổng Tử không bao giờ bảo rằng mình san dịch Kinh
Thi, vả lại lựa mà sao bỏ đi tới 9 phần 10, như vậy khác gì phá hoại kho
tàng văn học của thời trước; huống hồ đã lựa những thiên "hợp với lễ
nghĩa" thì tại sao lại giữ mấy chục thiên mà ai cũng nhận là dâm bôn của
nước Bội (Tình nữ), nước Dung (Tang trung, Thuần chi bôn bôn...), nước
Trần (Đổng môn chi văn, Trăn dữ vị... đã dẫn ở trên), nhất là của nước
Trịnh (Sơn hữu phù tổ, Thác hề, Giáo đồng, Phong, Tử Khâm...). Nay đọc
Marcel Granet chúng ta mới biết Khổng Tử có tinh thần khảo cổ của một
nhà xã hội học, phong tục học, giữ lại hết những ca dao thời trước, dù nó
trái với đạo đức thời ông, giữ lại để cho đời sau biết tâm lý và đời sống
người xưa ra sao. Ông biết rằng những thiên Quốc phong đó, môn sinh của
ông có thể hiểu nhầm, nên cảnh cáo họ rằng đọc Thi thì phải "tư vô tà",
nghĩa là "đừng nghĩ bậy", mà phải nhớ rằng tục thời xưa như vậy đó, nên