Thành. Sự thực nhiều khúc thành đã được các nước Yên, Triệu, Nguỵ xây
từ thời trước, nay ông chỉ cho nối lại, kéo dài, củng cố thêm, để thành một
thành duy nhất dải cả ngàn cây số. Ba trăm ngàn chiến sĩ với không biết
bao nhiêu tội nhân, quan lại phạm lỗi, nho sĩ không tuân lệnh đốt sách...
phải làm khổ sai trong một miền rừng núi trùng trùng điệp điệp, mùa đông
thì lạnh buốt, nước đóng băng, mùa hè thì không khí nóng như nung, mù
mịt cát bụi. Trên thành cất những đồn canh, và có đường rộng chạy ngựa
được giữa các đồn với nhau. Không biết bao nhiêu lời than thở, bao nhiêu
nước mắt của thân nhân những người đó, không vă, nhân thi sĩ nào chép lại
hết được. Nhưng trong dân gian còn truyền lại nỗi khổ của nàng Mạnh
Khương, thương nhớ chồng, đi mười ngàn dặm đường để thăm chồng bị bắt
đi xây thành, đến nơi thì chồng nàng đã chết rồi. Chung quanh chỉ là rừng
núi và đá. Không biết kiếm xác chồng ở đâu, nàng tuyệt vọng, khóc mấy
ngày mấy đêm, khóc tới nỗi chính cái thành cũng phải mủi lòng. Thành xây
xong, giúp cho Trung Hoa ngăn được các rợ xâm lăng trong một thời gian,
chứ làm sao ngăn cản được một cách vĩnh viễn. Hễ Trung Hoa suy, các rợ
du mục thịnh lên thì họ lại vượt qua được trường thành, vào chiếm các cánh
đồng phì nhiêu của Trung Hoa. Hiện nay thành nằm ở phía dưới biên giới,
không còn dùng vào việc gì nữa, ngoài cái việc thu hút khách du lịch ngoại
quốc[2].
6. Mở mang bờ cõi
Mới hoàn thành sự thống nhất Trung Quốc, chưa kịp củng cố ở trong, Thủy
Hoàng đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi ra nước ngoài.
Các dân tộc du mục miền bắc gọi chung là Hung nô vẫn là mối lo từ đời
Thương, Chu; họ thường xâm lấn biên giới, có chỗ sống lẫn lộn với người
Trung Hoa; đầu đời Tần họ đã len lỏi vào Hà Nam, Thủy Hoàng vội chặn
họ lại, sai Mông Điềm đem quân lên đánh, dồn họ về bắc, và đắp trường
thành để ngăn họ.