phát triển và mạnh như Tây!
Một điểm đáng khen của ông là chủ trương phi công. Ông rất ghét bọn đi
xâm chiếm nước khác. Ông ngạc nhiên rằng người ta xử tội một kẻ ăn trộm
một con bò, con heo mà kẻ đi xâm chiếm nước người thì lại được khen là
anh hùng, ghi công trận để lại đời sau. Tương truyền, một kĩ thuật gia thời
đó, Công Thâu Ban, chế giúp nước Sở một cái thang máy, sắp đem đánh
nước Tống; hay tin ông vội vàng đi từ nước Tề, luôn mười đêm mười ngày
đến đất Dĩnh, kinh đô Sở để can Công Thâu Ban và vua Sở; đồng thời ông
lại phái một số đệ tử qua Tống giúp nước này chống lại Sở nữa.
Ông là triết gia vị tha nhất trong lịch sử nhân loại. Môn đệ ông chép những
lời dạy bảo của ông trong bộ Mặc Tử, lời bình dị, không chút hoa mĩ, mà
hay lặp đi lặp lại một ý để đập mạnh vào óc người nghe, như lời thuyết giáo
trước công chúng, một giáo chủ, chứ không phải của một triết gia.
Biệt Mặc
Sau, Mặc giáo chia làm hai phái: một phái như Tống Kiên giữ đúng tinh
thần của Mặc Tử, cũng khắc khổ, bôn tẩu, giúp đỡ lẫn nhau để cứu loạn
cho thiên hạ; một phái gọi là Biệt Mặc có nhiều sáng kiến về tri thức luận.
Không rõ phái Biệt Mặc gồm những nhà nào; chỉ biết tư tưởng của họ chép
trong bộ Mặc Kinh (đừng lộn với bộ Mặc Tử) và xét về những vấn đề:
- tri giác (quan năng, cảm giác và tâm)
- thời gian, không gian.
- kí ức.
- danh dự.
Họ bàn về phương pháp căn bản của sự biện luận, lại mở đường cho ngữ
pháp học, luận lí học, toán học, vật lí học... gần như khoa học của Hi Lạp
thời cổ.
Họ chống kịch liệt phái Biện giả mà sau người ta gọi là phái Danh gia, tức
phái dùng cái danh mà định nghĩa, mà suy luận, gồm có Công Tôn Long,
có lẽ cả Huệ Thi nữa. Họ chuyên ngụy biện cốt làm cho người khác không
cãi được mình, chứ không cần ai tin mình, còn hơn phái ngụy biện
(sophisme) ở Hi Lạp, gần đồng thời với họ nữa. Chẳng hạn Huệ Thi bảo:
“Trời thấp như đất, núi phẳng bằng chằm; phương Nam không có chỗ cùng