bọn chủ điền, nên ông khuyến khích các vua lập lại tỉnh điền cho hạng dân
đó đỡ khổ.
Tuy nhiên, ông vẫn giữ phép tôn ti của chế độ phong kiến, kịch liệt mạt sát
Hứa Hành, một triết gia nước Sở có lẽ muốn lập lại chế độ Cộng sản
nguyên thủy, chủ trương mọi người hoàn toàn bình đẳng, dù vua chúa cũng
phải cày ruộng lấy mà ăn, và mọi hàng hóa ở chợ chỉ có một giá thôi, hễ dài
ngắn, nặng nhẹ bằng nhau thì giá tiền như nhau. Mạnh Tử cho như vậy lả
làm loạn thiên hạ: không thể nào có sự bình đẳng về trí tuệ, tài năng được:
hạng người nhiều tài năng thì lao tâm, ít tài năng thì lao lực, lao tâm thì cai
trị người lao lực và được người lao lực nuôi; lao lực thì bị người lao tâm trị
và phải nuôi người lao tâm. Qui tắc đó thời nào cũng đúng, ngày nay nhân
loại chỉ có thể giảm sự bất bình đẳng phần nào bằng luật pháp thôi. Không
có sự phân công thì không thể làm được gì cả.
Một cống hiến của Mạnh Tử là thuyết tính thiện. Khổng Tử chỉ bảo “tính
tương cận, tập tương viễn”, nghĩa là tính con người khi mới sinh thì gần
giống nhau, do tập tành và thói quen mà lần lần khác nhau. Mặc Tử cho
tính người như tấm lụa trắng, nhuộm xanh thì hóa xanh, nhuộm vàng thì
hóa vàng. Đồng thời với Mạnh, một triết gia, Cáo Tử, cũng chủ trương tính
không thiện không ác, Trang Tử bảo tính là siêu thiện ác, cũng là nghĩa đó.
Ngoài ra còn có người bảo tính vừa thiện, vừa ác.
Mạnh Tử bác thuyết của Cáo Tử, bảo tính người ta vốn thiện vì ai cũng có
bốn mầm thiện ở trong lòng (Trung Hoa gọi là tứ đoan: bốn mối): có lòng
thương người, đó là đầu mối của (đức) nhân; có lòng thẹn, ghét, đó là đầu
mối của nghĩa; có lòng từ nhượng, đó là đầu mối của lễ; và lòng biết phải
trái, đó là đầu mối của trí. Có cái mầm của nhân, nghĩa, lễ, trí mà biết bồi
dưỡng cho nó (tồn tâm dưỡng tính) cho mỗi ngày một phát mạnh lên thì ai
cũng có thể thành bậc Nghiêu, Thuấn được. Muốn tồn tâm thì phải giữ cho
tư dục đừng làm mờ ám nó. Cái tâm đó gọi là lương tâm. Có lương tâm thì
có lương tri, nghĩa là cái khả năng biết một cách mẫn tiệp mà đúng.
Thuyết tính thiện đó sau nảy ảnh hưởng lớn đến triết học đời Tống vả
Minh.
Ông khuyên phải làm điều hợp nghĩa để cho cái khí hạo nhiên (rộng lớn)