ngược lại. Không có gì ngạc nhiên, áp lực của nhóm cũng là một nhân tố
tác động. Milgram lập một hội đồng nhằm khuyến khích giáo viên sử dụng
mức điện thế cao hơn, nhưng khi hội đồng này từ chối làm theo mệnh lệnh
của Milgram và muốn ngừng thí nghiệm, các giáo viên cũng có xu hướng
không phục tùng mệnh lệnh ban đầu. Nói cách khác, Milgram đã nhận thấy
cái tốt và cái xấu phụ thuộc vào hoàn cảnh nhiều hơn khuynh hướng. Các
phát hiện này củng cố mô hình tiến hóa của tôi về cái xấu, theo đó các áp
lực xã hội từ các thành viên trong nhóm có tác động đặc biệt tới sự định
hình hành vi.
Dù các kết quả này khiến dư luận bối rối nhưng xét từ nhiều góc độ, kết quả
thí nghiệm của Zimbardo còn tồi tệ hơn. Trong thí nghiệm của Milgram, có
một nhân vật đầy quyền uy đứng trên các đối tượng yêu cầu họ tiếp tục thí
nghiệm và nhắc nhở họ về nghĩa vụ của người tham gia nghiên cứu. Trong
khi đó, Zimbardo nhận thấy các sinh viên trở nên xấu xa chỉ đơn thuần do
hoàn cảnh và không cần thêm bất cứ sự khuyến khích nào khi đã được phân
vai thành cai ngục hoặc tù nhân. Đây chính là ý nghĩa của khái niệm sự tầm
thường của cái ác do nhà lý thuyết chính trị người Đức Hannal Arendt đưa
ra.
Vì chúng ta tiến hóa để trở thành những con người xã hội nên sẽ cực kỳ
nhạy cảm với suy nghĩ của người khác về mình và luôn muốn thỏa hiệp với
chuẩn mực của cộng đồng. Nghiên cứu của Solomon Asch về sự thỏa hiệp
cho thấy suy nghĩ tập thể quan trọng tới mức nếu bạn thuộc một nhóm tám
người được yêu cầu ước lượng độ dài của một đoạn thẳng bằng cách so
khớp nó với ba đoạn thẳng có độ dài khác nhau; ngay cả khi đoạn thẳng phù
hợp lồ lộ trước mắt, nếu bảy người còn lại trong nhóm chọn một đoạn thẳng
khác, trong 70% trường hợp bạn sẽ đồng tình với họ. Quy mô nhóm quyết
định mức độ của sự thỏa hiệp. Nếu chỉ có hai người ước lượng độ dài của
các đoạn thẳng, sự thỏa hiệp với lựa chọn sai hầu như không xảy ra. Trong
một nhóm bốn người, nếu ba người chọn sai, tỷ lệ thỏa hiệp của người còn