Tự nguyện là một phụ phẩm của tiến hóa. Nhờ có bộ não lớn độc nhất vô
nhị và thùy trán rộng khác thường, con người có khả năng tự nhận thức
đồng thời nhận thức được sự tự nhận thức của người khác. Chúng ta có Lý
thuyết Tâm hồn cho phép đặt mình vào tâm trí của người khác và chúng ta
biết người khác cũng có khả năng này. Chúng ta có thể diễn giải ngôn ngữ
biểu tượng để giao tiếp và tranh luận với người khác. Con người là một loài
động vật đạo đức đã tiến hóa ý thức về đúng, sai và có xu hướng tự nhiên
về cả hợp tác và cạnh tranh, vị tha và ích kỷ, tốt và xấu. Sự tự nguyện hình
thành vì chúng ta có thể đánh giá hậu quả của rất nhiều quá trình hành vi
sẵn có, từ đó đưa ra lựa chọn và hành động, và cũng vì chúng ta ý thức
được việc chúng ta (và người khác) đưa ra các lựa chọn như vậy. Từ các
khả năng tiến hóa này, chúng ta có thể và thực sự tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình cũng như để người khác chịu trách nhiệm về hành vi của
họ.
Tự nguyện là một đặc tính nổi bật của bộ não. Tâm trí là đặc tính nổi bật
của hàng triệu tế bào thần kinh riêng lẻ, mỗi tế bào lại kết nối với hàng
nghìn tế bào khác để cùng sinh ra hàng tỷ tỷ trạng thái thần kinh tiềm tàng.
Khi mỗi cá nhân lớn lên và trưởng thành, các mối tương liên cũng tăng lên
và phát triển cùng kinh nghiệm sống của mỗi người. Dù chúng ta có chung
tổ tiên tiến hóa tạo nên cấu trúc thần kinh chung, bộ não đã điều chỉnh cho
phù hợp với môi trường. Điều này tạo ra một vòng phản hồi tự xúc tác
khác, trong đó các trải nghiệm mới kích thích các tế bào thần kinh khiến các
mối liên kết tiếp hợp cũng gia tăng. Các liên kết mới này không giống nhau
và phản ứng với môi trường theo cách thức riêng tùy theo ý thức của mỗi
người, làm nảy sinh hàng loạt phản ứng không trùng hợp với bất kỳ ai. Vì
đường đời mỗi người không giống nhau, hàng tỷ tỷ hoán vị tiềm năng của
các liên kết thần kinh trong mỗi bộ não đồng nghĩa với việc ý thức của mỗi
người là duy nhất. Với đặc tính nổi bật cao cấp của sự duy nhất này, kết hợp
với các nhân tố tự do trước đây, sự tự nguyện sẽ nảy sinh.