các xung đột nhỏ hơn giữa chúng càng thấp. Thứ ba, một quốc gia càng dân
chủ, các xung đột quốc tế nó tham gia nhìn chung càng ít tàn khốc. Thứ tư,
nhìn chung một quốc gia càng dân chủ, nguy cơ xảy ra bạo động tập thể
trong nước càng thấp. Cuối cùng, nhìn chung một quốc gia càng dân chủ,
nguy cơ xảy ra các cuộc đàn áp, tàn sát dân chúng càng thấp.”
Kết luận: Vũ lực gây chết chóc, dân chủ cứu rỗi. Giải pháp: Mở rộng dân
chủ. Từ các số liệu và lý thuyết kinh tế trình bày trong cuốn sách này, tôi
muốn bổ sung ý sau đây. Kết luận: Thương mại dẫn đến hòa bình và thịnh
vượng. Giải pháp: Mở rộng thương mại.
Tất nhiên, điều này đã được tôi giản lược rất nhiều vì chương kết không
phải nơi thảo luận các tài liệu đồ sộ về tính lịch sử, chính trị và kinh tế của
chiến tranh. Điều lớn hơn tôi muốn nói tới ở đây: như tôi đã tranh luận, đạo
lý thể hiện dưới dạng các cảm xúc đạo đức đã tiến hóa từ rất lâu trước khi
tôn giáo và chính trị ra đời; tôi muốn khẳng định thương mại đã tiến hóa từ
rất lâu trước khi các nhà nước xây dựng các thể chế kinh tế khuyến khích
thương mại. Vì thế, các cảm xúc đạo đức liên kết thương mại và lòng tin đã
hình thành. Mối liên kết này có liên quan trực tiếp tới tình trạng chiến tranh
và hòa bình giữa các nhóm. Thí dụ, thương mại giữa các nhóm người có
lịch sử ít nhất 200.000 năm vì các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các công cụ
bằng xương và nhiều đồ tạo tác như vỏ sò, đá lửa, ngà voi và chuỗi hạt ở
cách xa nơi chúng được tạo ra hàng trăm dặm. Có thể lấy người Châu Mỹ
bản địa làm thí dụ gần hơn. Họ là những thương nhân năng động khi các
nhà thám hiểm và thực dân Châu Âu tới đây – nhà khảo cổ học Shepard
Krech lập luận rằng lý do giúp người châu Âu nhanh chóng trao đổi được
với dân Châu Mỹ bản xứ (thí dụ, đổi chuỗi hạt lấy tấm da) là do người dân
nơi đây đã quen trao đổi với nhau.
Thương mại giúp xóa bỏ hận thù giữa những người xa lạ và củng cố lòng
tin. Các nghiên cứu đề cập trong Chương 9 đã cho thấy điều gì sẽ xảy ra khi
thương mại diễn ra giữa những người xa lạ. Dopamine (chất truyền dẫn